Nếu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo

Bài làm

Nhắc đến Nam Cao, không thể không nhắc tới Chí Phèo – một tác phẩm văn học để đời của nhà văn giàu tình yêu thương dành cho những người nông dân cùng khổ và bất hạnh. Trong đó, Chí Phèo và thị Nở là hai nhân vật chính được tác giả xây dựng rất điển hình với những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc.

Nếu như giá trị hiện thực nêu lên tình cảnh thảm hại của người nông dân trong xã hội cũ bị bần cùng hóa, bị áp bức tới mức đánh mất cả nhân phẩm của mình, thì giá trị nhân đạo lại bày tỏ niềm xót thương vô bờ đối với những mảnh đời bất hạnh ấy. Đồng thời, tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng, khiến họ sống còn khổ hơn chết.

Chí Phèo tuy là đứa trẻ mồ côi nhưng trước khi bị đẩy vào tù, Chí từng là một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành, chịu khó. Chí đi làm thuê làm mướn, đi ở để kiếm sống qua ngày. Chí cũng ước mơ có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ thêu thùa hoặc dệt vải. Nhưng đáng tiếc thay khi ước mơ đơn sơ giản gị và thánh thiện ấy chưa kịp thực hiện thì tai họa đã giáng xuống đời Chí. Chí bị bà ba dâm đãng của Bá Kiến dụ dỗ rồi đẩy Chí vào tù. Tháng ngày u tối trong tù, cộng thêm cái án oan khiến lòng thù hận của Chí dâng cao ngùn ngụt. Ra tù, Chí trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại khiến ai cũng khiếp sợ. Chí uống rượu và say triền miên. Cứ say lại chửi. Cho tới khi tình cờ gặp thị Nở trong một đêm trăng thanh gió mát, Chí say tình nhưng lại tỉnh rượu. Chí ý thức được cuộc đời, nhận thức được tuổi già đang đến. Và Chí sợ cô đơn. Chí yêu thị, dù thị chỉ là người đàn bà dở hơi, xấu xí và ế chồng. Hai người sống với nhau như vợ chồng suốt mấy ngày. Trong lúc Chí đang mơ màng tới ước mơ ngày nào của mình thì thị lại quay ngoắt đi chối từ Chí. Thị bỏ rơi Chí đúng lúc Chí vừa mới trở lại làm người. Chí uất ức tìm đến nhà Bá Kiến. Chí kêu to muốn làm người lương thiện. Nhưng Chí nhận ra rằng mình không thể hoàn lương được nữa. Chí đâm chết Bá Kiến rồi tự tử.

Câu chuyện xoay quanh những biến cố của cuộc đời Chí. Từ đó nói lên sự thật về bi kịch của những người nông dân hiền lành, chất phác, chịu thương chịu khó nhưng không được sống yên bình. Trong tác phẩm, Chí Phèo chính là đại diện cho những con người đó. Về bản tính, họ cũng lương thiện như lúc Chí còn là một chàng trai trẻ. Dù Chí mồ côi cha mẹ, nhưng Chí vẫn sống rất tốt. Thậm chí, Chí còn nuôi một ước mơ giản dị đến thánh thiện về một gia đình nho nhỏ. Mái ấm ấy sẽ là cái nôi để đưa cuộc đời Chí tới bến bờ hạnh phúc. Nhưng xã hội bất công, giai cấp thống trị gian ác, đại diện ở đây là cha con nhà Bá Kiến. Bọn chúng đâu có để Chí được yên thân. Chí bị đẩy vào tù, cuộc đời coi như đã bị hủy hoại. Ra tù, Chí lại trở thành tay sai chuyên đi đòi nợ thuê và đâm thuê chém mướn cho nhà hắn. Con người lương thiện trước đây của Chí dường như đã bị lãng quên. Chí chẳng nhớ mình là ai nữa. Giấc mơ ngày nào của Chí cũng bị chìm vào trong những cơn say triền miên. Giờ đây Chí bị tha hóa cả về nhân cách lẫn ngoại hình. Nhà văn đã khoác lên Chí một diện mạo rất ghê tởm: cái đầu trọc lốc, cái mặt cơng cơng, hàm răng cạo trắng hếu, bên cánh tay săm trổ hình ông tướng cầm trùy. Đến ngay cả Nam Cao là người cha “đẻ” ra Chí Phèo còn phải thốt lên câu “trông gớm chết”. Với dáng vẻ ấy, Chí rất hợp để đóng vai một tay sai đắc lực cho cha con nhà Bá Kiến. Dân làng ai cũng vừa khiếp sợ Chí, vừa khinh vừa ghét Chí. Không ai còn nhìn Chí như một con người bình thường nữa. Không biết trong lòng Chí nghĩ gì. Những lúc say, Chí chỉ biết đi loanh quanh, đi ngật ngưỡng trong làng mà chửi oang oang lên. Tiếng chửi nghe thảm thiết làm sao. Chí chửi cả làng Vũ Đại. Chí chửi những ai không chửi nhau với Chí. Và rồi Chí chửi đứa chết cha chết mẹ nào đã đẻ ra Chí để Chí phải sống cuộc đời khổ như thế này. Trong tiếng chửi của Chí thấp thoáng có nỗi đau mà Chí đang gánh chịu. Có thể dân làng Vũ Đại không ai thèm để ý đến Chí, nhưng đọc những câu văn ai oán mà Nam Cao dành cho “đứa con đẻ” của mình, ta cảm thấy xót xa cho tấm thân của Chí lúc này. Có lẽ Chí hận cuộc đời, và hận cha mẹ lắm. Mọi người và cả Chí đều không biết ai đã sinh ra Chí. Chí bị bỏ rơi ở một cái lò gạch hoang. Dân làng đưa Chí về nuôi. Chí âm thầm lớn lên theo năm tháng. Không ngờ, cuộc đời Chí lại lận đận, khổ sở đến như vậy. Từ bi kịch mồ côi cha mẹ, đến lúc phải vào tù, rồi ra tù không được trở lại làm người nữa. Chí rơi vào cuộc sống bê tha, bế tắc và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhà văn đã dùng nghệ thuật để xây dựng lên Chí. Nhưng chính Chí lại là đại diện cho cả một lớp người trong xã hội đương thời bị bần cùng hóa, bị rơi vào bước đường cùng và bị tha hóa tới mức đánh mất cả bản thân, mất cả nhân tính.

>> Xem thêm:  Phân tích bài thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương

Cuộc đời Chí càng khổ bao nhiêu lại càng chứng minh tội ác tày trời của bọn quan lại, cường hào bấy nhiêu. Chính bọn chúng đã đập tan ước mơ giản dị của Chí. Chúng đã trà đạp lên nhân cách và bản tính lương thiện của những người nông dân vô tội. Chúng ép họ rơi vào bước đường cùng, khiến họ sống không bằng chết. Những nỗi đau mà Chí phải gánh chịu hiện rõ qua những vết sẹo chằng chịt trên khuôn mặt Chí. Chí rạch mặt ăn vạ không biết bao nhiêu lần, máu chảy ròng ròng nhưng điều đó có thấm thía gì khi tâm hồn Chí đã tan nát từ lâu.

Nhưng bên cạnh những sự thật tàn nhẫn ấy, Nam Cao đã đưa đến cho cuộc đời Chí một thị Nở – một người đàn bà dù xấu xí, dù dở hơi và ế chồng nhưng chính thị lại là người tạo ra bước ngoặt lớn cho Chí. Hai người gặp nhau tình cờ trong một đêm trăng thanh gió mát. Thị nằm ngủ quên bên gốc chuối, còn Chí bước ngật ngưỡng trong men say. Chí nhìn thấy thị nằm đó hớ hênh, sự ham muốn xác thịt dâng lên. Chí lao vào thị. Còn thị cũng chẳng kịp kêu cứu, mà có kêu cứu cũng không ai nghe được nữa. Sau đêm ấy, cuộc đời Chí thay đổi hoàn toàn. Chí nhận thức được cuộc sống xung quanh mình. Chưa bao giờ Chí yêu đời như thế. Ước mơ thánh thiện ngày nào của Chí cũng quay trở lại, mập mờ trong tâm trí. Chí ngỡ rằng ước mơ sắp trở thành hiện thực. Còn thị, thị xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhưng qua con mắt của tình yêu, Chí lại thấy thị có duyên đến lạ lùng. Họ nhìn nhau tình tứ, dành cho nhau những cử chỉ ân cần. Chí đang rất tỉnh, tỉnh sau một cơn say dài triền miên. Vì vậy Chí cũng nhìn thấy rất rõ thị là con người như thế nào. Thị vừa xấu, vừa dở. Nhưng đối với Chí, thị lại là “người yêu lí tưởng”. Cuộc tình chóng vánh của hai người đã nói lên sự yêu thương, sự đồng cảm giữa người với người trong hoàn cảnh khó khăn. Dù thị là người như thế nào đi chăng nữa, trong thị vẫn ánh lên lòng nhân hậu và sự thuần khiết vô cùng. Thị xấu một cách rất tự nhiên, và cũng tốt theo chính bản năng của tự nhiên ấy. Thị không hề toan tính, cũng chẳng hề để ý rằng Chí là một con quỷ dữ. Ngược lại, trong mắt thị lúc này lại nhìn thấy con người hiền lành của Chí. Chỉ có những người lương thiện mới có cái nhìn lương thiện đến vậy. Sự xuất hiện của thị chính là lòng xót thương của tác giả đối với Chí Phèo – “đứa con đẻ” của ông.

>> Xem thêm:  Phân tích ý nghĩa chi tiết giấc ngủ của Liên ở cuối câu truyện Hai Đứa Trẻ

Nhất là tình tiết bát cháo hành của thị dành cho Chí. Bát cháo ấy rất đơn sơ, nhưng lại là điểm sáng nhất của tác phẩm. Bởi nó được nấu lên từ tình yêu thương chân thật của một người đàn bà dở hơi dành cho một kẻ đang u mê đầy tội lỗi. Chính bát cháo ấy đã làm Chí tỉnh thức giữa cuộc đời nghiệt ngã. Chí hiểu rằng mình cần phải làm lại từ đầu. Và Chí sẽ cùng thị thực hiện ước mơ.

Nhưng thật buồn vì hạnh phúc chưa được bao nhiêu, Chí lại bị thị Nở cự tuyệt. Một lần nữa cuộc đời Chí rơi vào vực thẳm. Một lần nữa người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng. Thị Nở đến, mang theo hi vọng lớn lao cho cuộc đời Chí nhưng chính thị lại tiếp tục đẩy Chí vào khổ đau. Bởi thị chỉ là một người đàn bà dở hơi, thị không có chính kiến cho bản thân mình, lại càng không thể suy nghĩ trước những lời thành kiến của người bà cô. Bà ấy không sai, nhưng bà là một trong những người dân của làng Vũ Đại, có có nhìn khắt khe và nhận định rằng Chí là một con quỷ dữ không hơn không kém. Và dĩ nhiên, thị không thể nào hạnh phúc với Chí được nữa. Thị quay đi, bỏ mặc Chí bơ vơ trong cơn tuyệt vọng. Lúc này, lòng hận thù của Chí lại dâng lên. Chí bước thẳng tới nhà Bá Kiến, giết chết hắn rồi tự tử.

>> Xem thêm:  Suy nghĩ về hiện tượng vứt rác bừa bãi

Chí chết, gióng lên hồi chuông cho những người đang rơi vào bi kịch giống Chí. Làm thế nào để không phải sống một cuộc đời bi đát và nhận cái chết thương Tâm như Chí? Chính tác giả là người đã “khai quật” những sự thật cay đắng của người nông dân bất hạnh nhưng ông cũng chỉ có thể dành cho họ những niềm cảm thương sâu sắc chứ không thể kéo tay từng người vượt qua được vũng bùn lầy của xã hội.

Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và những hình ảnh chân thực, Nam Cao đã mang đến cho văn học Việt Nam một tác phẩm giàu giá trị. Ở đó, có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Ông đã phơi bày sự thật về xã hội phong kiến tàn ác bất nhân, đẩy người nông dân lương thiện vào hoàn cảnh bế tắc, khiến họ trở thành những con quỷ dữ giữa cuộc đời. Đồng thời ông cũng bày tỏ niềm cảm thông và sự xót thương cho những mảnh đời bất hạnh. Thị không cùng Chí thực hiện ước mơ còn dang dở, nhưng ít nhất trong chuỗi ngày dài đầy cay đắng, Chí cũng được tận hưởng những phút giây hạnh phúc của tình yêu.

  • Truyện ngắn Chí Phèo [Nhà xuất bản Đời mới, Hà Nội, 1941] là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nam Cao, được đánh giá là một trong những kiệt tác văn xuôi trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945.
  • Nội dung truyện phản ánh hiện thực xã hội nông thôn ở khía cạnh đấu tranh giai cấp qua hình tượng Chí Phèo, một nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá. Nhà văn phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống bị đè nén, bóc lột đến cùng cực của người nông dân và khẳng định nhân phẩm của họ không bạo lực nào tiêu diệt được.

Tóm tắt tác phẩm :

  • Chí Phèo là một đứa con hoang bị bỏ rơi cạnh chiếc lò gạch cũ ở giữa đồng. Lớn lên như cây cỏ, Chí đi ồ cho hết nhà này đến nhà khác, không người thân thích, không được ai ban cho chút tình thương…
  • Lớn lên, Chí trở thành anh trai cày khoẻ mạnh, làm canh điền cho nhà lí Kiến.
  • Chỉ vì những cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hổn Chí đã bị nhuộm đen.
  • Sau khi ra tù, Chí Phèo về làng với bộ dạng gớm ghiếc và tâm hồn tội lỗi. Chí Phèo bị coi là con quỷ dữ của làng Vũ Đại và bị gạt ra khỏi cộng đồng. Để quên nỗi bất hạnh, Chí Phèo vùi đầu vào những cơn say rượu triền miên và sống như con thú hoang cô độc, hung dữ.
  • Mối tình bất chợt với Thị Nở như một hi vọng sống. Vì không vượt qua nổi định kiến ghê gớm, Thị Nở quay lưng với Chí Phèo khiến hắn lại rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Chí Phèo giết bá Kiến rồi tự sát.

Phân tích hình tượng Chí Phèo:

  • Cách giới thiệu nhân vật của tác giả độc đáo và hấp dẫn. [Qua tiếng chửi rất đặc biệt của Chí Phèo].
  • Tiếng chửi ấy cho thấy tình trạng bi đát của nhân vật.
  • Chí Phèo là hiện thân của nỗi khổ đau khôn cùng: sinh ra là người mà không được làm người. Cuộc đời hắn là một cơn say dài, chỉ khi gặp Thị Nở, lương tri của Chí Phèo mới bừng tỉnh. Hắn ước ao được sống lương thiện. [Thể hiện qua hình ảnh bát cháo hành và chi tiết hơi cháo hành].
  • Để được tồn tại, Chí Phèo phải bán linh hồn cho quỷ dữ. Khi ý thức về nhân phẩm trỗi dậy thì Chí Phèo lại phải từ bỏ sự sống của mình. Đây là điểm đỉnh của bi kịch số phận một con người.
  • Tiếng kêu thống thiết của Chí Phèo: Tao muốn làm người lương thiện… báo hiệu bản chất tốt đẹp bị vùi lấp bấy lâu nay đã trở về. Âm điệu của nó đầy ám ảnh, làm day dứt người đọc…

Giá trị hiện thực:

+ Câu chuyện là bức tranh phản ánh sự tha hoá của người nông dân nghèo:

  • Phản ánh nỗi khổ của nông dân bị bạo lực đen tối tàn phá về tâm hồn.
  • Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của nhân vật Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm của xã hội thực dân phong kiến đương thời đối với phẩm chất, nhân cách của người nông dân.
  • Chí Phèo giết bá Kiến, điều đó cho thấy mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn đã lên tới đỉnh điểm, cần phải được giải quyết theo chiều hướng tích cực nhất.

Giá trị nhân đạo:

  • Nam Cao đã phản ánh tình trạng bế tắc, không lối thoát của nông dân trong xã hội đương thời bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự thông cảm, thương xót chân thành.
  • Ước mơ chính đáng của người nông dân nghèo là được sống một cuộc sống bình thường, được hưởng hạnh phúc đơn sơ.
  • Khi cái ác gặp tình thương thì nó sẽ được hoá giải và bản tính lươnq thiện sẽ trở về với con người.
  • Tuy là con quỷ của làng Vũ Đại nhưng tính thiện trong con người Chí Phèo chưa chết hẳn. Chí Phèo thà chết chứ quyết không chịu quay về kiếp sống thú vật.
  • Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề lớn là quyền sống của con người: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời ?

Kết bài:

  • Nam Cao đã thành công xuất sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
  • Chí Phèo là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn xuôi hiện đại.
  • Nam Cao xứng đáng là nhà vãn hiện thực nổi tiếng của giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám 1945.

BÀI LÀM

Truyện ngắn Chí Phèo in lần đầu có tên là Cái lò gạch cũ [Nhà xuất bản Đời mới, Hà Nội, 1941]. Sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày [Hội văn hoá cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946], tác giả đặt lại tên truyện là Chí Phèo. Đây là thành công tiêu biểu của Nam Cao về đề tài nông dân, được đánh giá là một kiệt tác trong giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám. Nội dung truyện Chí Phèo phản ánh xã hội nông thôn ở khía cạnh đấu tranh giai cấp.

Qua hình tượng Chí Phèo – một nông dân bị lưu manh hoá – Nam Cao đã miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống bị đè nén, bóc lột đến cùng cực của người nổng dân và khẳng định nhân phẩm của họ không bạo lực nào tiêu diệt được.

Suy nghĩ về số phận bi thảm của nhân vật Chí Phèo, người ta thường nói đó là tấn bi kịch của một nông dân nghèo bị tha hoá trong xã hội cũ. Cuộc đời Chí Phèo là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng đinh ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ở phần đầu truyện, tác giả kể về tuổi thơ của Chí. Từ lúc lọt lòng, Chí đã bị mẹ bỏ rơi trong cái lò gạch cũ giữa đồng. Rồi nó lớn lên như cây cỏ, bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, nó không được ai ban cho một chút tình thương.

Nhưng điều bất hạnh lớn nhất của Chí Phèo là không được sống bình thường một đời sống dù nghèo khổ nhưng lương thiện như bao người khác. Chí vốn là chàng trai nông dân khoẻ mạnh, hiền lành. Chỉ vì những cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm đoạ đày trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Từ mặt mũi đến tính cácb hắn đều trở nên dị dạng, đáng sợ. Chí Phèo đã bị xã hội đương thời rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, biến thành con quỷ dữ để rồi bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng Vũ Đại.

Chí Phèo là hiện thân của nỗi khổ đau khôn cùng: sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Hắn say triền miên, bởi thế hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Nhưng đến khi tỉnh rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Dường như trong những cơn say triền miên, Chí Phèo vẫn tĩnh. Chí luôn ở trạng thái say – tỉnh bất phân. Sự độc đáo của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.

Mở đầu tác phẩm, tác giả không chỉ giới thiệu nét độc đáo, hấp dẫn trong tính cách nhân vật mà còn hé mở cho người đọc thấy tình trạng bất hạnh của một số phận : Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ củng thế, cứ rượu xong là hắn chửi… Chính lúc điên rồ nhất cũng là lúc Chí Phèo tỉnh nhất. Cách thu hẹp dần đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh chứ không say. Từ đối tượng xa xôi, vu vơ, không đụng chạm đến ai là trời: Bắt đầu hẳn chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào ? Đến đối tượng gần hơn là đời: Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức quá, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn và hắn giận dữ điên cuồng khi không ai lên tiếng cả. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa nỗi khốn khổ của thân phận mình. Đó là nỗi khổ bị khinh bỉ, né tránh, ghẻ lạnh. Không có người nào chịu chửi nhau với hắn. Không có ai thèm dây vào hắn. Có nghĩa là dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại là còn chịu giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với hi vọng được nghe người nào đó chửi lại, nhưng hắn chỉ nhận được sự im lặng đáng sợ. Hắn cô độc, chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Nam Cao đau xót nhận xét: Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Nếu hát được thì đau khổ sẽ vơi bớt. Khổ cho hắn và khổ cho mọi người là trời không phú cho hắn giọng hát. Không biết hát thì hắn chửi, vậy những tiếng chửi rủa kia cũng là một bài hát đặc biệt của riêng Chí Phèo chứ sao? Bài hát lộn ngược của một linh hồn méo mó và đau khổ.

Trong cách chửi của Chí Phèo có cái lôgic của một tâm lí tỉnh táo – tỉnh táo trong đau khổ cùng cực. Chí Phèo muốn cạy miệng thiên hạ nhung không được. Hắn đau khổ vì bị tẩy chay trong khi muốn hoà đổng với mọi người.

Cuộc đời Chí Phèo có thể chia làm hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, đời Chí cũng diễn ra hai chặng nhỏ mà cái mốc của nó là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một chàng trai lương thiện thành một tên lưu manh. Sau khi ra tù, Chí về làng thì các thế lực hắc ám như bá Kiến đã hoàn thành nốt cái công đoạn cuối cùng của quy trình tha hoá là biến một tên lưu manh thành con quỷ dữ.

Nam Cao miêu tả cuộc đời Chí Phèo là một cdn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời. Chí Phèo rơi vào một tình huống bi thảm. Lúc bấy giờ, nếu sự tỉnh táo có hiện ra thấp thoáng sau những cơn say thì đấy mới là tỉnh rượu chứ chưa phải tĩnh ngộ. Mà tỉnh rượu thì chưa mấy ý nghĩa. Chỉ sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo mới có sự bừng tỉnh của lương tri. Hắn thực sự đau đớn vì đã ý thức được về nỗi khổ của mình. Ý thức càng sâu sắc thì nỗi khổ càng thấm thìa. Thị Nở đóng vai trò là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời mà trước nhất là trong tâm lí của Chí Phèo.

Trong một lần say rượu, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu xí, đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã khơi lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí. Đoạn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao là bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.

Sớm hôm ấy, Chí Phèo bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài, lòng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót ríu rít, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đi chợ… Những tiếng quen thuộc đó hôm nào chẳng có nhưng bấy lâu nay, Chí Phèo đâu có nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Giờ đây, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thiết tha của sự sống, gợi dậy cái ước mơ chính đáng một thời: Hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Đó cũng là mong muốn’ một cuộc sống hạnh phúc giản đơn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.

Khi thấy Thị Nở bưng nồi cháo hành nóng hổi đến, Chí Phèo ngạc nhiên và xúc động. Ăn bát cháo từ tay Thị Nở, hắn bỗng nhận ra rằng cháo hành rất ngon; bát cháo của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù ? Hương vị cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu thương chân chất, của hạnh phúc giản dị mà lần đầu tiên trong đời Chí Phèo được hưởng.

Lần đầu tiên, mắt hắn như ươn ướt. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người ? Lúc này, Chí Phèo đã trở lại con người thật của mình, trở lại là anh canh điền chất phác, thật thà năm xưa.

Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại với cuộc đời bình thường: Trời ơiI Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao I Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại… Chí băn khoăn, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp: mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.

Vậy Thị Nở là ai? Đó là hiện thân của tình người. Chỉ có tình người mới cứu được tính người. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng thật mong manh. Đối diện với một định kiến hà khắc, tình người rất dễ tiêu tan. Chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ khả năng để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến ghê gớm của xã hội [thông qua bà cô Thị Nở] không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa lại bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Bị từ chô’i, bị bỏ rơi, Chí Phèo đau đớn, uất ức cùng cực và lại mang rượu ra uống.

Trạng thái tâm lí phức tạp của Chí Phèo ở đoạn này được Nam Cao miêu tả thật sống động với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, bằng hành động bên ngoài, bằng lời bình trực tiếp của người kể chuyện… Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là dùng chi tiết. Đó là chi tiết hơi cháo hành. Hơi cháo hành là dư vị của tình thương ít ỏi mà Chí Phèo đang rất cần, rất khát khao: Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoáng hơi cháo hành…

Lần này khác mọi lần, càng uống vào Chí Phèo lại càng tỉnh ra. Rượu cũng bất lực, không thể làm lương tri đau đớn của Chí Phèo tê liệt được. Hắn cứ ôm mặt khóc rưng rức. Đã bao lâu nay hắn mới có được cử chỉ và những giọt nước mắt của con người?! Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu là nước mắt cảm động khi hắn bưng bát cháo hành trên tay và kết thúc lại là nước mắt đau khổ vì bị Thị Nở bỏ rơi. Vào lúc tuyệt vọng nhất, hơi cháo hành cứ thoang thoáng khiến cho hắn chìm sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Sang bên kia dốc cuộc đời rồi mà lần đầu tiên hắn mới được ăn cháo hành. Muộn màng, nhưng còn là có. Cháo hành tuy được nấu bằng bàn tay Thị Nở… nhưng dẫu sao có còn hơn không. Đã tưởng đời mình từ nay đã có hơi cháo hành của riêng mình rồi, nào ngờ Chí Phèo không có quyền được hưởng. Cuộc đời nhẫn tâm cướp nốt của hắn. Mất Thị Nở, Chí mất luôn hơi cháo hành. Mất hơi cháo hành là mất cái hi vọng cuối cùng của hắn vào cuộc đời này. Nhưng tại sao nó lại thoang thoáng hiện lên vào lúc này ? Để trêu ngươi, để chọc tức Chí Phèo chăng ?! Nó cứ chờn vờn đâu đó. Hạnh phúc nhỏ bé ấy, hắn ngỡ trong tầm tay nhưng không sao giữ được vì nó quá đỗi mong manh. Nó cứ thoang thoáng hiện lên để làm cho Chí Phèo thêm tủi, thêm đau; để đẩy tấn bi kịch của hắn lên đến tột cùng. Mất hơi cháo hành – tình thương đồng nghĩa với sự bấu víu cuối cùng cũng hết. Chẳng còn gì để hi vọng nữa. Lòng Chí tan hoang !

Không gì bình thường đến vô nghĩa như hơi cháo hành, vậy mà qua cái nhìn và tấm lòng nhân hậu sâu thẳm của Nam Cao, hơi cháo hành thoáng qua ấy đã hằn như một vết cứa rớm máu trong tâm linh con người. Viết được như vậy chỉ có thể là bút lực tài hoa của một thiên tài!

Bản chất lương thiện của Chí Phèo bị vùi lấp bấy lâu nay giờ đã trỗi dậy, lương tri con người đã trở về. Nhưng sự trở về của lương tri, trớ trêu thay, lại nhanh chóng đẩy bi kịch tha hoá của Chí Phèo lên đến điểm đỉnh của nó.

Từ tận cùng tuyệt vọng, Chí Phèo đã chuyển sang tột cùng căm uất và hắn đã giắt dao đi… Cũng như mọi lần, Chí Phèo vừa đi vừa chửi… Chí Phèo đau đớn vì tuyệt vọng, đồng thời hiểu rõ hơn bao giờ hết tội ác của kẻ đã huỷ hoại đời hắn. Chí Phèo đã đến thẳng nhà bá Kiến, trợn mắt, chỉ tay vào mặt lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo ở cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện I… Ai cho tao lương thiện ?… Tao không thể là người lương thiện được nữa! Biết khôngI Chỉ có một cách… biết không /… Lời nói của Chí Phèo đanh thép và phẫn nộ, âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đọc sững sò và day dứt.

Kẻ thù đã bị đền tội nhưng ngay sau đó, Chí Phèo tự sát. Chí Phèo phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú hoang. Chí Phèo đã chết trước ngưỡng cửa trở về cuộc sống bình thường, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Trước đây, để được tồn tại, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, phải bán linh hồn cho quỷ dữ. Giờ đây, khi ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì Chí Phèo lại phải từ bỏ cuộc sống của mình. Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu trong niềm đau thương tột độ vì mong ước giản dị, chính đáng là được làm người lương thiện không thể trở thành hiện thực.

Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người lại qua… Một “Chí Phèo con” sắp ra đời?! Nam Cao đã gióng một hồi chuông cảnh báo: Còn những “cái lò gạch cũ” trong xã hội ấy thì vẫn còn có những Chỉ Phèo khác ra đời. Nghĩa là tuy Chí Phèo đã chết nhưng bi kịch Chí Phèo vẫn còn, nếu không xoá bỏ cái xã hội thối nát ấy đi.

Từ hình tượng Chí Phèo, tác phẩm toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

Thứ nhất là giá trị hiện thực. Câu chuyện là bức tranh phản ánh sự tha hoá của người nông dân nghèo khổ dưới ách thống trị của thực dân phong kiến thời Pháp thuộc.

Phản ánh nỗi khổ của nông dân, Nam Cao không đi sâu vào nạn SƯU thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch hoạ… mà ở truyện ngắn Chí Phèo, tác giả tập trung khai thác trên phương diện người nông dân nghèo bị bạo lực đen tối tàn phá về tâm hồn, huỷ hoại nhân tính, phủ định giá trị và tư cách làm người.

Chí Phèo phản ứng quyết liệt, gay gắt bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây gổ, chửi bới… Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả lúc say, hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm. Dân làng sợ hãi xa lánh và ghê tởm hắn. Từ anh Chí lương thiện, bị hai thế lực cường quyền và định kiến làm cho tha hoá, đã biến thành Chí Phèo, con quỷ làng Vũ Đại. Chí Phèo sống cũng như chết. Sinh ra ở làng Vũ Đại nhưng hắn lại bị chính dân làng Vũ Đại từ chối, ruồng bỏ. Không những Chí Phèo khổ về vật chất mà còn phải sống kiếp sống tối tăm như thú vật. Chí Phèo đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, bị cướp đi linh hồn người để rồi bị loại khỏi cộng đồng xã hội.

Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của nhân vật Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm của cái xã hội suy đồi đối với phẩm chất, nhân cách của người nông dân cùng khổ.

Tác phẩm Chí Phèo là bức tranh phản ánh chân thực và sâu sắc bộ mặt nông thôn Việt Nam trong xã hội thực dân, phong kiến trên bình diện đấu tranh giai cấp. Hành động Chí Phèo vung dao đâm chết bá Kiến không phải là vô thức, càng không phải là vụ giết người của gã Chí Phèo lưu manh mà cao hơn thế, đó là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân cùng khổ đã thức tỉnh về quyền sống, uất ức vùng, lên. Nhà văn Nam Cao đã khẳng định tính chất khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn là không thể hoà giải được. Xung đột ấy càng nén xuống càng dễ bùng nổ. Mâu thuẫn giai cấp dường như đã lên tới đỉnh điểm, cần phải được giải quyết theo chiều hướng tích cực nhất.

Hình tượng Chí Phèo còn thể hiện giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của nông dân trong xã hội đương thời bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự thông cảm, thương xót chân thành. Nam Cao đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nông dân nghèo bị áp bức, mà Chí Phèo là đại diện.

Hổi trẻ, Chí là người thấp cổ bé họng nhất và cũng bị ức hiếp nhiều nhất ở làng Vũ Đại. Càng ở hiền thì càng không gặp lành, Chí bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị lăng nhục một cách bất công. Chí khốn cùng hơn cả hạng cùng đinh, vốn hiền như đất, nhưng càng hiền thì hắn lại càng bị đạp sâu xuống bùn đen và cuối cùng thì không còn được coi là con người, phải sống kiếp thú hoang. Tuy nhiên, Chí Phèo vẫn mong muốn được sống một cuộc đời bình thường, được hưởng hạnh phúc đơn sơ như mọi người. Chất nhân văn thấm đẫm trong ngòi bút của nhà văn toát lên từ những chi tiết ấy.

Đoạn viết về sự thức tỉnh của tính người trong lương tri Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ, thể hiện tư tưởng nhân đạo cao cả của ngòi bút Nam Cao: khi cái ác gặp tình thương thì nó sẽ được hoá giải và bản tính lương thiện sẽ trở về.

Tư tưởng nhân đạo còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả điểm đỉnh tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Tuy là con quỷ của làng Vũ Đại nhưng tính thiện trong con người Chí Phèo chưa chết hẳn. Chí Phèo thà chết chứ quyết không chịu quay về kiếp sống thú vật nữa. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn để lớn về quyền sống của con người: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời ? Đó là câu hỏi mà xã hội khi ấy chưa thể có lời giải đáp.

Nam Cao đã thành công xuất sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để diễn tả quá trình tâm lí phức tạp và khắc hoạ tính cách nhân vật vừa độc đáo vừa có ý nghĩa điển hình cao độ. Với giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo, truyện ngắn Chí Phèo được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn xuôi hiện đại và Nam Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực nổi tiếng của giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám.

Video liên quan

Chủ Đề