Lý Công Uẩn còn có tên khác là gì

Trong lịch sử Việt Nam, có rất nhiều các sự kiện dời đô của các đời vua. Có thể kể đến như đặt Phú Xuân làm kinh đô của nhà Tây Sơn hay chọn Huế làm kinh đô của nhà Nguyễn. Nhưng phải kể đến lần dời đô nổi tiếng và đúng đắn của Lý Công Uẩn. Vào mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất tức năm 1010. Vậy hãy cùng tìm hiểu về thân thế của vị vua anh minh, lỗi lạc và hành trình dời đô đã thay đổi tương lai của kinh thành lúc bấy giờ.

I. Lý Công Uẩn là ai?

  • Lý Công Uẩn tên thật là Lý Thái Tổ. Là người đã sáng lập lên nhà Lý của nước Việt ta. Theo các tài liệu ghi chép thì Lý Công Uẩn là người thuộc làng Cổ Pháp. Hiện nay, làng đó thuộc tỉnh Bắc Ninh.
  • Ông sinh vào ngày 8/3/974, lên ngôi vào năm 1010 và mất vào ngày 31/3/1028. Lý Công Uẩn cai trị đất nước trong 19 năm, từ năm 1009 đến năm 1028.
  • Ông xuất thân từ một võ quan cao cấp của nhà Tiền Lê. Sau đó, vào năm 1009, ông được thiền sư Vạn Hạnh. Và lực lượng Đào Cam Lộc tôn lên làm hoàng đế sau khi vua Lê Long Đĩnh mất. Khi lên làm hoàng đế, ông lấy hiệu là Lý Thái Tổ.
Lý Công Uẩn là ai
  • Trong khoảng thời gian ông trị vì đất nước, Lý Công Uẩn đã dành phần lớn thời gian để dẹp loạn, củng cố lại triều đình. Vào tháng 7 năm 1010, ông đã quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La sau khi đã dẹp loạn phiến quân. Ông đổi tên Đại La thành Thăng Long. Và đánh dấu son cho sự phát triển kéo dài 216 năm của  nhà Lý.

II. Tiểu sử vua Lý Công Uẩn:

  • Ông sinh vào ngày 8/3/974. Ông là người Cổ Pháp – Bắc Giang[ nay thuộc thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh]. Theo các ghi chép thì mẹ ông là người họ Phạm. Tên cha không được ghi chép lại, mẹ ông sinh ông tại chùa Tiêu Sơn.
  • Năm ông lên 3 tuổi, ông được nhà sư Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp nhận làm con nuôi. Khi còn bé, ông bộc lộ ra là một đứa trẻ rất tinh anh, tuấn tú khác thường. Vì thế, sư Vạn Hạnh đã bỏ rất nhiều công sức để dạy dỗ Lý Công Uẩn thành một người có chí khí, tích cực dùi mài kinh sử.
Tiểu sử vua Lý Công Uẩn – Tượng đài vua
  • Sau khi trưởng thành, ông được tiến cử vào triều. Từ đời vua Lê Đại Hành cho đến đời vua Lê Long Đĩnh. Vào năm 1009, sau khi vua Lê Long Đĩnh mất. Lý Công Uẩn soán ngôi vua chớp nhoáng.
  • Sau đó, ông lên ngôi vua, lấy hiệu là Thái Tổ, đóng đô tại Hoa Lư. Ông phong cha mình là Hiển Khánh Vương, phong mẹ mình là Minh Đức Thái Hậu.
  • Trong quãng thời gian ông trị vì đất nước, ngoài việc bình ổn chính trị, ổn định đất nước. Ông còn đặt ra các dấu mốc quan trọng khác. Các dấu mốc đó là dời kinh đô Hoa Lư về Thăng Long và phát triển Phật giáo

III. Vua Lý Công Uẩn dời đô:

1. Nguyên nhân vua Lý Công Uẩn dời đô:

  • Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, tình hình đất nước lúc bấy giờ đang rất khủng hoảng. Cả đất nước chưa thể thống nhất trên mọi phương diện, nỗi lo bị nhà Tống xâm lược vẫn rất lớn.
  • Điều cần làm nhất bấy giờ của Lý Công Uẩn là bình ổn lại đất nước, chấm dứt sự khủng hoảng kéo dài. Xây dựng một nền móng vững chắc để triều đình có thể phát triển.
  • Và việc đầu tiên ông làm để ổn định đất nước đó chính là đặt lại vị trí trung tâm của đất nước. Đó chính là dời kinh đô từ Hoa Lư về Đại La[ Thăng Long].
Nguyên nhân vua Lý Công Uẩn dời đô
  • Kinh đô Hoa Lư xưa được Đinh Bộ Lĩnh chọn. Vì nó ở vị trí khá thuận lợi để phòng thủ, xây dựng căn cứ. Hoa Lư là nơi có địa hình trũng, bao bọc là các dãy núi đá vôi. Đây là vị trí tốt cho phòng thủ quân sự nhưng để phát triển văn hóa, kinh tế thì lại không tốt.
  • Sau khi nhận ra sự bất tiện của kinh đô Hoa Lư, Lý Công Uẩn đã chọn Đại La để dời kinh đô về. Đại La là một vị trí khá tốt, thiên thời địa lợi, dễ dàng phát triển về mọi mặt.Thuận lợi về cả địa thế lẫn tiềm năng kinh tế.
  • Ngoài ra, việc dời đô về Đại La còn là một dấu mốc quan trọng. Đánh dấu cho sự phát triển vững mạnh của dân tộc ta. Dân tộc ta lúc đó đã đủ lớn mạnh để có thể tự phát triển. Không cần dựa vào thế phòng thủ của địa thể Hoa Lư nữa.

2. Quá trình Lý Công Uẩn dời đô:

Thông tin về cuộc dời đô của vua Lý Công Uẩn:

  • Vào thời ngày xưa, các phương tiện di chuyển còn thô sơ, hệ thống giao thông đơn giản. Chính vì vậy việc dời đô thời đó là một việc hết dức quan trọng và khó khăn.
  • Theo các ghi chép và các nghiên cứu của các nhà sử học. Lý Công Uẩn dời kinh đô về thành Đại La bằng con đường thủy và đi vào thời điểm cuối hè.
  • Qua các nghiên cứu và các giả thuyết thì quá trình dời đô của Lý Công Uẩn phải đi qua khá nhiều các con sông. Ông bắt đầu đi từ bến Ghềnh Tháp, sau đó cho thuyền rẽ vào sông Sào Khê

Quá trình dời đô:

  • Để có thể đến được bến đò Trường Yên và vào sông Hoàng Long. Thì đoàn thuyền của Lý Công Uẩn phải đi qua cầu Đông và cầu Dền ở Hoa Lư. Sau khi qua sông Hoàng Long thì ông rẽ vào Giám Khẩu. Sau rẽ tiếp vào sông Đáy. Qua sông Đáy là đến sông Châu Giang. Qua Châu Giang thì đoàn thuyền đi ngược sông Hồng để vào được sông Tô Lịch phía trước thành Đại La.
Quá trình Lý Công Uẩn dời đô
  • Quá trình dời đô của Lý Công Uẩn đi qua tổng cộng 6 con sông. Trong đó, 3 sông Sào Khê, Hoàng Long, Châu Giang là đi xuôi dòng. Còn lại là đi ngược dòng.
  • Có nhiều người cũng thắc mắc tại sao Lý Công Uẩn không đi đường biển cho nhanh. Như các bạn cũng biết thì thời đó, các phương tiện đường biển rất thô sơ, đơn giản. Thêm cả việc tải nặng nữa thì khi qua biển, thuyền sẽ không chịu được các đợt sóng lớn.

Qua hơn 1000 năm, thời gian và lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy. Quyết định dời đô của ông là rất sáng suốt, thông minh. Ngoài việc mở ra một triều đại phồn thịnh, hưng vượng mà ông còn đánh dấu các mốc lịch sử rất sáng suốt cho đến bây giờ. Mình mong các thông tin trên đây sẽ giúp các bạn hiểu hơn về vị vua anh minh, sáng suốt – vua Lý Công Uẩn.

XEM THÊM

Mẹ vua là bà Phạm Thị người thôn Dương Lôi [xưa là Diên Uẩn, Cổ Pháp], xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, hòn đá thiêng “Lý gia linh thạch” ở chùa Tiêu đã chỉ rõ rồi.

Nhưng, vua được sinh ra ở đâu vẫn là vấn đề nghi hoặc. May sao tại thôn Dương Lôi [Đình Sấm] có chùm di tích về cội nguồn vương triều Lý vô cùng đậm đặc và sắc nét. Ở Dương Lôi có chùa Gia Châu [còn gọi là Minh Châu] đến đời Lý đổi thành Cha Lư Tự. Chùa này thờ Phật và thờ bà Phạm Thị Dương Lôi còn có Cầu Đường [Ảnh Đường linh thiêng thờ mảnh đất rồng nở], hiện còn chứng tích bàn đẻ, chậu tắm, liềm cắt rốn...

Lại còn may mắn nữa là trong sách “Thiên Nam ngữ lục” có ghi lại một chi tiết hiếm hoi: Biết bà Phạm Thị có thai, sư trụ trì chùa Ứng Đại [tức Ứng Đại Thiên Tâm, Tràng liêu tức là Thiên tâm, tức Lục Tổ – chùa Tiêu] là Vạn Hạnh đã “đuổi bà” ra khỏi chùa vì sợ mang tiếng, “bà lang thang đi hành khất về đến chùa Kẻ Gia Châu thì sinh ra vua”.

Như vậy ta có đủ lý do để tìm về Dương Lôi...

Mùa xuân năm 974.

Bà Phạm Thị sống ẩn dật trong ngôi lều nhỏ một gian hai chái vốn là quán bán nước của mẹ con bà khi xưa, quán này cách chùa Gia Châu khoảng 80m về phía Bắc.

Hằng ngày có một số bạn bè, bà con họ hàng đi làm đồng qua, thường ghé lại động viên, thăm hỏi, an ủi, giúp đỡ... bà còn biết đi đâu, về đâu ngoài quê hương thân yêu của mình. Sau bao phen long đong lận đận, bao cơ hàn, tủi cực. Đêm ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, bà Phạm Thị đã trở dạ tại ngôi quán nhỏ. Đêm ấy mưa to, gió lớn, sấm chớp đì đùng, cậu bé mới ra đời khôi ngô tuấn tú, mặt to, tai lớn, tay dài quá đầu gối, hai bàn chân mang mạng đế vương. Sách “Thiên Nam ngữ lục” cho biết việc sinh hạ ấy như sau:

“Qua đường chẳng kẻ đến chùa

Thấy có ba bà đem thuốc dưỡng nuôi

Nàng mừng uống đã một thôi

Sinh ra được một con trai lạ thường”

[Nhà xuất bản Hà Nội 1960, trang 46 - 47]

“Ba bà” ở đây chính là bà con họ hàng, bạn bè thân thiết của bà Phạm Thị đến động viên giúp đỡ bà khi sinh nở. Lệ ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Người phụ nữ ở thôn Dương Lôi mỗi khi ở cữ bà con hàng xóm đến thăm hỏi chật nhà, người biếu viên thuốc quý, chục trứng gà so, người nải chuối, cân đường. Gia đình sản phụ thường nấu hàng nia bánh đúc, hàng thúng xôi chè khoản đãi khách, được vậy mới vui vừng, toại nguyện.

Điều trùng hợp, thú vị nữa là dòng họ Phạm ở Dương Lôi cho đến nay vẫn có nghề thuốc gia truyền, tồn tại đã hàng nghìn năm, vậy “Thiên Nam ngữ lục” ghi “Thấy có ba bà mang thuốc dưỡng nuôi” suy ra càng có lý.

Chính cái quán nước thủa ấy, sau này khi Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, dân làng Diên Uẩn đã xây thành ngôi nhà 3 gian làm nơi thờ cúng, gọi là Cầu Đường - Ảnh Đường thờ mảnh đất linh thiêng nơi rồng nở.

Trở lại với hoàn cảnh bà Phạm Thị sau khi sinh nở nơi quán nhỏ, tất nhiên không tránh khỏi lời qua, tiếng lại, với những lễ giáo phong kiến hà khắc, những hủ tục khắt khe có từ muôn đời. Bà phải chịu trăm đắng nghìn cay, muôn phần tủi cực. Nhưng người dân làng Diên Uẩn luôn có những tấm lòng nhân hậu, cưu mang, rộng mở, đùm bọc bà qua cơn khốn khó. Người phụ nữ quê mùa chân đất ấy vẫn tảo tần nhẫn nhục, nuôi con tới năm lên 3 tuổi.

Cho đến ngày mùng 7 tháng giêng năm 977 [tính theo âm lịch], bà quyết định ẵm con đến nương nhờ cửa Phật tại chùa Cổ Pháp. Đó là ngôi chùa cổ thuộc thôn Đại Đình, cách Diên Uẩn khoảng 1km. Sư trụ trì chùa này là Lý Khánh Văn sẵn lòng tiếp nhận, ông cho đứa trẻ làm con nuôi và đặt tên con là Lý Công Uẩn [phải chăng tất cả chuỗi sự kiện này đều có sự sắp đặt từ trước].

Biết con mình đã được nương thân vào nơi tin tưởng, được trở về với “gia đình” thân yêu... Bà Phạm Thị tạm yên lòng, dứt ruột từ biệt con, dặn dò Khánh Văn mấy lời cuối cùng rồi ra đi. Dân làng Diên Uẩn, Dương Lôi từ ngàn xưa đến nay vẫn lấy ngày mùng 7 tháng giêng làm ngày giỗ bà, nay là ngày hội chùa Cha Lư.

Tại quê hương Dương Lôi, Đại Đình yêu dấu, Lý Công Uẩn đã sống những tháng ngày thơ ấu đẹp đẽ, chứa chan tình làng, nghĩa xóm, tình yêu thương đùm bọc của bà con, họ hàng, tuy nghèo khổ, khó khăn nhưng giàu tình, nặng nghĩa. Điều đó đã tạo nên nhân cách hiền tài của ông vua sáng lập vương triều Lý sau này.

Năm lên 7 tuổi, Lý Công Uẩn được Khánh Văn gửi lên chùa Tiêu tu học. Chính Nguyễn [Lý] Vạn Hạnh, trụ trì tăng Viện, là người đã đào tạo phật pháp, cũ công, Nho học cho Lý Công Uẩn. Ông là người thầy, người cha nghiêm khắc, khắt khe mà chân thành yêu thương; kiên quyết, cứng rắn mà bao dung, độ lượng. Ông đã mang hết công sức, tâm huyết, tài trí của mình nuôi dạy Lý Công Uẩn nên người.

Dưới cao tăng [kiêm nho sỹ, sấm sỹ, phong thuỷ học] quê hương đã tạo nên nhân cách Lý Công Uẩn có cái tình, cái nghĩa của người dân quê, có đủ trong mình học vấn uyên bác của Phật giáo, thâm thuý của đạo Nho, có trí, có dũng của một bậc minh vương.

Khoảng năm 1002, năm Lý Công Uẩn đã 28 tuổi, cây gạo ở làng Diên Uẩn bị sét đánh gãy cành. Tục truyền rằng phía đông cây gạo lộ ra bài sấm ngữ, chắc bài sấm này của Thiền sư Vạn Hạnh. Ông biết, vào tuổi 28, Lý Công Uẩn đã đến độ trưởng thành, đang làm võ tướng tại triều đình Hoa Lư, lại có nhiều uy tín với quần thần. Nhưng “Dân vi bản”, người dân ở Diên Uẩn, Dương Lôi phải là những người được biết trước “mọi việc”... Cái gốc là đây. Việc họ Lý lên thay nhà Lê là do ý trời đã định.

Mùa đông năm 1009, Lê Long Đĩnh tàn ác, bạo ngược, bị mọi người đều oán giận, đã đột ngột từ trần, đó là ngày 30 tháng 10 năm Kỷ Dậu [19/11/1009]. Bá quan văn võ triều đình Hoa Lư bàn bạc trong hai ngày rồi quyết định đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, hôm ấy là ngày mùng 2 tháng 1 năm Kỷ Dậu [tức là ngày 21/11/1009]. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có lời chua:

“Đó là một ông vua ứng mệnh trời, thuận lòng người nhân thời mở vận”

Video liên quan

Chủ Đề