Lượng tiêu thụ gaoh trung bình của việt nam năm 2024

Phát biểu tại hội thảo, ông Hoàng Trung - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn [NN&PTNT] - cho biết, sản lượng lúa trung bình một năm của Việt Nam đạt 43-45 triệu tấn, tương đương khoảng 26-28 triệu tấn gạo, trong đó khoảng 20 triệu tấn gạo tiêu thụ trong nước, phần còn lại dành cho xuất khẩu.

11 tháng năm nay, Việt Nam đã xuất khẩu 7,8 triệu tấn gạo, thu về 4,4 tỷ USD. Đây là những con số kỷ lục, cao nhất kể từ năm 1989 trở lại đây và dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hoàng Trung phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Cảnh Kỳ.

Theo ông Trung, trong những năm qua, dù diện tích trồng lúa giảm nhưng sản lượng và chất lượng lúa gạo Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế trên thị trường. Gạo Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế công nhận là một trong những loại gạo ngon nhất thế giới, đáp ứng được các điều kiện an toàn thực phẩm.

“Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Đề án “ Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030 ” - nơi chiếm tới 90% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Với đề án này, chúng tôi xác định mục tiêu hình thành 1 triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam” - Thứ trưởng Hoàng Trung nói.

Những điểm nghẽn

Theo đại diện Bộ NN&PTNT, để phát triển thực chất các chuỗi giá trị lúa gạo của Việt Nam theo hướng trách nhiệm và bền vững, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra.

Cụ thể, tình trạng các mắt xích trong chuỗi giá trị chưa nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của liên kết sản xuất, chưa chuyển đổi tư duy theo hướng thị trường, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, người dân chưa thấy được lợi ích của việc tham gia vào hợp tác xã hay tổ hợp tác...

Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu dẫn tới hiện tượng thời tiết bất thường nghiêm trọng, xâm nhập mặn, nước biển dâng... là điểm nghẽn quan trọng trong sản xuất lúa gạo . Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, lúa gạo Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều quốc gia xuất khẩu khác, cộng với hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu ngày càng được nâng cao…

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Cảnh Kỳ.

PGS.TS Nguyễn Phú Son - Trường Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ - cho rằng, dù lúa gạo là một trong 3 ngành hàng chủ lực của ngành nông nghiệp [cùng với thủy sản và cây ăn trái], nhưng thực tế, hoạt động của chuỗi giá trị lúa gạo ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng còn tồn tại khá nhiều điểm yếu bên trong và phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường kinh doanh bên ngoài, tạo nên những “điểm nghẽn”.

Theo ông Son, trong chuỗi giá trị lúa gạo hiện nay, mục tiêu liên kết mới chỉ dừng lại ở chỗ đạt được lợi nhuận trong ngắn hạn; hợp đồng chỉ mang tính thời vụ; không có được đầu ra ổn định về sản lượng lúa tiêu thụ và giá bán sản phẩm, dẫn đến thu nhập thấp và không ổn định… Tư duy sản xuất kinh doanh của các tác nhân trong chuỗi chưa được chuyển đổi theo hướng thị trường và bền vững.

Đối với các hộ nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất lúa, theo ông Son, còn mang tư duy sản xuất theo kiểu làm ăn nhỏ lẻ, chạy theo số lượng hơn là chất lượng, lạm dụng sử dụng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến chi phí sản xuất cao, gia tăng ô nhiễm môi trường…

Một điểm nghẽn khác là thiếu sự chia sẻ rủi ro và lợi ích giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị lúa gạo . Điểm nghẽn này thể hiện rõ rệt nhất trong khâu thương thảo ký kết hợp đồng và trong khâu thu mua lúa. Hệ lụy của vấn đề này đã thường xuyên dẫn đến tình trạng bội tín khi các bên tham gia liên kết “bẻ kèo”.

Mỗi khi thị trường tốt lên, phía nông dân có xu hướng bán lúa với lượng ít hơn như trong hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp. Ngược lại, mỗi khi thị trường xấu đi, nông dân có xu hướng bán với lượng lúa nhiều hơn, hoặc doanh nghiệp quay mặt lại với nông dân. Điều này tạo nên tính không bền vững trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.

Theo PGS.TS Nguyễn Phú Son, ngành hàng lúa gạo chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu lớn. Đây là một điểm nghẽn lớn làm ảnh hưởng đến khả năng dự báo thị trường, cũng như quản lý tốt ngành hàng để làm tối ưu hóa khoảng cách cung - cầu hàng hóa...

Thực tế, ngay sau khi thông báo của Ấn Độ có hiệu lực ngày 20/7, giá gạo xuất khẩu của hầu hết các quốc gia liên tục tăng theo ngày. Đến ngày 27/7, giá gạo 5% tấm của Việt Nam ở mức 558 USD/tấn, Thái Lan 603 USD/tấn, Pakistan 533 USD/tấn.

Báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc [FAO] cho thấy, chỉ số giá gạo thế giới đang ở mức cao nhất trong vòng 11 năm qua. Nửa đầu năm nay, giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam đã tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm 2022, theo diễn biến chung trên toàn thế giới. Nguyên nhân là do tình trạng El Nino khiến sản lượng gạo giảm trên toàn cầu.

Tại Thái Lan, sản lượng gạo năm nay có thể giảm 6%, xuống ở mức từ 25,1 đến 25,6 triệu tấn và còn có thể xuống thấp hơn nếu khô hạn kéo dài gây ra những tác động xấu tới mùa vụ.

Cũng do lo ngại về hiện tượng El Nino, nhiều quốc gia như Philippines, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và các nước châu Phi đã đẩy mạnh dự trữ gạo để bảo đảm an ninh lương thực. Mặc dù vậy, dự báo của FAO cũng cho rằng, một số quốc gia ở châu Á và châu Phi có thể sớm phải đối mặt với tình trạng thiếu gạo nghiêm trọng khi giá tiếp tục tăng mạnh.

Trước diễn biến tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo nhiều biến động, Việt Nam cũng cần có sự cân đối lượng gạo xuất khẩu và tiêu dùng nội địa để vừa gia tăng kim ngạch xuất khẩu, vừa bình ổn giá thóc, gạo trong nước và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.

Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo, gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, trước diễn biến tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo nhiều biến động như vậy, Việt Nam cũng cần có sự cân đối lượng gạo xuất khẩu và tiêu dùng nội địa để vừa gia tăng kim ngạch xuất khẩu, vừa bình ổn giá thóc, gạo trong nước và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh đó, triển vọng nguồn cung lúa gạo của Việt Nam cũng được dự báo sẽ giảm nhẹ so với niên vụ trước do ảnh hưởng của El Nino đối với cây trồng.

Do vậy, các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo cần phối hợp tổ chức thu mua và tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa bảo đảm lợi ích cho người trồng lúa theo chính sách hiện hành, đồng thời nghiêm túc duy trì mức dự trữ lưu thông tối thiểu theo quy định tại Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày 15/8/2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo. Mức dự trữ lưu thông tối thiểu tương đương 5% số lượng gạo mà thương nhân đã xuất khẩu trong 6 tháng trước đó.

Các doanh nghiệp cần báo cáo định kỳ về lượng thóc, gạo tồn kho; theo dõi sát tình hình thị trường gạo để tổ chức phương án sản xuất, xuất khẩu phù hợp, hiệu quả.

Trong trường hợp giá thóc, gạo hàng hóa tăng quá cao bất hợp lý, thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm tổ chức hệ thống phân phối gạo, cung ứng ngay lượng gạo tồn kho và lượng gạo dự trữ lưu thông để bình ổn thị trường nội địa theo chỉ đạo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Chủ Đề