Lời mở đầu Tiểu luận tâm lý học mầm non

Bạn đang xem: tiểu luận về trẻ mầm non Tại Lingocard.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [217.01 KB, 35 trang ]

Đang xem: Tiểu luận về trẻ mầm non

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA ——————-

BÁO CÁO

——————————

Sinh viên thực hiện: Lớp: Giáo viên hướng dẫn: Th.S.

Bộ môn:

NĂM 2017MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Vì thế chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát huy nhân tố con người của Đảng và nhà nước. Chiến lược này cụ thể hóa trong xây dựng chương trình giáo dục mầm non.Trong đề án phát triển giáo dục Mầm non giai đoạn 2006 – 2015, quan điểm trọng tâm là đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để mọi tổ chức, cá nhân và toàn xã hội tham gia giáo dục quốc dân. Ở nhiều nước không chỉ ở những nước nghèo mà ngay cả ở những nước giàu, để phát triển sự nghiệp giáo dục họ đã tìm nhiều biện pháp để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, trong đó có xã hội hóa giáo dục mầm non. “Văn học dân gian là nguồn suối không cạn của văn học dân tộc, nguồn suối trong sạch đó là ngọn nguồn của sự sáng tạo mà mỗi con người đều tìm về cội

nguồn đó” . Đặc biệt, đồng dao là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ thơ. Trong cuộc sống cũng như trong chương trình giáo dục ở nhà trường mầm non, những bài đồng dao thường được trẻ tiếp nhận một cách hào hứng, thích thú. Trẻ thường hát xướng lên các bài đồng dao trong những lúc vui chơi, bản thân việc “đọc” đồng dao cũng là một hình thức chơi, những trò chơi dân gian đó được nhiều trẻ yêu thích. Qua đó đồng dao góp phần phát triển thể chất, cung cấp và trau dồi những kiến thức về thế giới xung quanh, nuôi dưỡng nhân cách trẻ, mở ra cho trẻ một chân trời nghệ thuật ngôn từ, đem đến những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ tốt đẹp. Đối với trẻ mầm non, đồng dao có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Ngay từ thuở lọt lòng các trẻ đã được nghe những tiếng hát ru ầu ơ của bà, mẹ và những người thân xung quanh. Rời khỏi lòng mẹ, đứa trẻ theo anh, theo chị bước sang một môi trường văn hóa khác mang tính chất cộng đồng, cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc đồng dao có thể coi như một sự tiếp nối những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với gia đình, làng xóm, quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ chỉ biết tiếp nhận tiếng hát ru của mẹ một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu để hát và bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng. Có thể nói những bài đồng dao là dòng sữa ngọt ngào thấm vào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Từ đó, giáo dục trẻ biết yêu cái đẹp, yêu quê hương, yêu cuộc sống của mình. Nhà sư phạm Xukhômlinski đã tổng kết: “Tuổi thơ không thể thiếu âm nhạc cũng không thể thiếu trò chơi và truyện cổ tích. Thiếu những cái đó trẻ em chỉ là những bông hoa khô

héo”. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức đúng đắn một thực tiễn rằng: hiện nay, cuộc sống phát triển theo hướng hiện đại hoá mạnh mẽ đã tác động không nhỏ đến nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thưởng thức văn học, âm nhạc của trẻ. Phần lớn Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 3

trẻ được tiếp xúc với những phương tiện, thiết bị học, chơi hiện đại, tiện lợi và trở nên say mê chúng. Đối với các em, những câu chuyện cổ tích, những bài đồng dao, những trò chơi dân gian đôi khi nhạt dần tính hấp dẫn. Câu hỏi đặt ra cho các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ là làm thế nào để lưu lại trong tâm hồn trẻ những nét đẹp, những giá trị độc đáo của bản sắc văn hoá dân tộc?; làm thế nào để cuốn hút trẻ tham gia vào việc giao tiếp trong môi trường của văn hoá, văn học dân gian để các em biết và yêu một nền nghệ thuật dân tộc? Vấn đề mang tính tầm vóc nhưng không phải chỉ được giải quyết trên tầm vĩ mô. Nó bắt đầu từ chính những việc cụ thể, thiết yếu nhất. Chẳng hạn, dạy cho trẻ biết đọc, biết hát đồng dao, biết chơi và yêu thích các trò chơi dân gian. Chính vì những lý do trên mà việc đưa các tác phẩm đồng dao vào chương trình giáo dục mầm non và quan tâm đến các phương pháp dạy đồng dao cho trẻ là hết sức cần thiết. Lứa tuổi mẫu giáo lớn là lứa tuổi cuối cùng của tuổi mẫu giáo, là giai đoạn then chốt để trẻ tới trường phổ thông, là bước ngoạt của cuộc đời trẻ. Vì thế cần chuẩn bị tốt các mặt tâm lí để trẻ sẵn sàng đi học trong đó ngôn ngữ là thành phần cốt yếu. Khi sử dụng ngôn ngữ, các từ ngữ chỉ có giá trị khi nó có chứa đựng nội dung, bởi vậy việc cung cấp cho trẻ hiểu nội dung của từ là điều cần thiết. Việc dạy trẻ nhằm tăng số lượng từ trong các trường nghĩa để có điều kiện lựa chọn là việc hết sức cần thiết. Nếu vốn từ ít thì khả năng lựa chọn sẽ bị hạn hẹp và hiệu quả dùng từ sẽ giảm, số lượng từ đó cũng chưa đủ để trẻ thể hiện được chính xác những nội dung phức tạp, tinh tế mà cuộc sống đòi hỏi. Chính vì vậy cần có kế hoạch để vừa làm tăng chất lượng sử dụng từ vừa mở rộng vốn từ cho trẻ. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao” nhằm tìm hiểu vai trò vị trí quan trọng của đồng dao đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn; từ đó đề xuất một số biện pháp cơ bản làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn qua các bài đồng dao. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Qua quá trình tìm hiểu về sự tác động của đồng dao trong việc làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn và xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao tôi đã tiếp cận với một số công trình nghiên cứu trong cũng như ngoài nước. Ở những công trình này, theo những mục đích nghiên cứu khác nhau, chúng tôi nhận thấy các tác giả chủ yếu quan tâm đến những vấn đề khái quát về đồng dao hoặc vai trò của ca đồng dao đối với đời sống tinh thần của trẻ em chứ chưa đi sâu nghiên cứu tác động đặc biệt của đồng dao đối với việc phát triển vốn từ ở trẻ lứa tuổi mầm non, từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể để phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các bài đồng dao. Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 4

Ngôn ngữ là tài sản quý báu của văn minh nhân loại. Ngôn ngữ là điểm mốc then chốt giúp cho nhiều công trình nghiên cứu được tỏa sáng. Không những vậy ngôn ngữ có sức hút mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học, từ những lĩnh vực khác nhau: Triết học, tâm lí học, ngôn ngữ học, giáo dục học, xã hội học,…Vai trò phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ lâu được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các tác giả như: Borodis.A.M với cuốn: Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em [NXBGD Matxcơva 1974] Xôkhin với tác phẩm: Phương pháp phát triển lời nói trẻ em [NXBGD Matxcơva – 1979] E.Ti.Khêiva với tác phẩm: Phát triển ngôn ngữ trẻ em [NXBGD 1997]. Các tác giả: Phedorenco.L.P, Phomitreva.G.A, Lomarep.V.K cũng có những cuốn sách tương tự. Ngay từ những năm 80 của thế kỉ trước, chúng ta đã có những cuốn giáo trình đầu tiên về phương pháp phát triển lời nói trẻ em trong các trường đào tạo giáo viên mầm non: Phan Thiều với cuốn: Dạy nói cho trẻ trước tuổi cấp 1 [NXBGD 1973]. Hay nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa [1997] về: Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo [0 – 6 tuổi]. Các tác phẩm trên đều đề cập đến nội dung và các phương pháp nhằm hình thành và phát triển vốn từ ngữ cho trẻ. Đây chính là cơ sở, là tiền đề cho các nhà khoa học sau này nghiên cứu, tìm tòi, khám phá về vấn đề ngôn ngữ của trẻ. Về đồng dao, một số công trình nghiên cứu từ việc sưu tầm tư liệu đồng dao dành cho trẻ em đã đi vào nghiên cứu ý nghĩa giáo dục của thể loại này đối với trẻ em như cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt Nam của Nguyễn Thúy Loan, Trò chơi dân gian cho trẻ em dưới 6 tuổi của Trương Kim Oanh, Lời đồng dao trong trò chơi cổ truyền của trẻ em của Phan Đăng Nhật [1992]. Các công trình này đều đi đến kết luận đồng dao có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em. Trong bài Ca dao và viết cho thiếu nhi tác giả Trần Đức Ngôn, Dương Thu Hương đã khẳng định: “Ca dao là đại bộ phận dành cho người lớn tuy nhiên tác giả dân gian khi sáng tác ca dao vẫn không quên trách nhiệm đối với thế hệ trẻ nên đã dành trọn một phần ca dao cho

các em được gọi là đồng dao” . Cuốn Đồng dao với tuổi thơ tác giả đã đề cập đến chức năng giáo dục của đồng dao với trẻ em “Đồng dao có tác dụng mạnh đối với trẻ em trước hết là nó giáo dục thái độ văn hóa đối với hai mối quan hệ chủ yếu của con người đó là con người với thiên nhiên và con người với xã hội”. Đây là những vấn đề hết sức quan trọng đối với sự hình thành, phát triển nhân cách con

người . Qua khảo cứu các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài chúng tôi đã nhận thấy như sau: Các công trình nghiên cứu đã đánh giá căn bản về vai trò của đồng dao đối với trẻ em. Những đánh giá này cho thấy sự cần thiết đưa các bài đồng dao có giá trị vào chương trình giáo dục trẻ ngay từ bậc học mầm non. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu riêng về phương pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mầm non thông qua các bài đồng dao. Nhận ra Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 5

khoảng trống đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao với các chủ điểm ở trường mầm non. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của các môn khoa học liên quan đến đề tài: Tâm lý học, Giáo dục học, Văn học… và xuất phát từ tình hình thực tế về việc dạy đồng dao cho trẻ mầm non chúng tôi tiến hành nghiên cứu và xây dựng biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao. 4. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao 5. Giả thuyết khoa học Trên thực tế, đồng dao chưa đươc chú trọng đúng mức và giảng dạy đúng hướng, sáng tạo để giúp trẻ mẫu giáo lớn làm giàu vốn từ, tiếp nhận một cách có hiệu quả loại văn học dân gian này. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Xây dựng một số biện pháp nhằm nâng cao vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao. 7. Phạm vi nghiên cứu Do điều kiện phạm vi nghiên cứu có hạn và khuôn khổ đề tài, tôi chỉ tiến hành nghiên cứu các biện pháp làm giúp trẻ mẫu giáo lớn làm giàu vốn từ thông qua các bà đồng dao. 8. Phương pháp nghiên cứu 8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài, hệ thống hóa các vấn đề khái quát trong tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. 8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 8.2.1. Phương pháp quan sát. 8.2.2. Phỏng vấn, trao đổi với giáo viên, học sinh. 9. Đóng góp của đề tài Sự thành công của đề tài sẽ bổ sung một số biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài đồng dao. Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 6

10. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo nội dung của khóa

luận gồm ba chương:

Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 7

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Cơ sở tâm lý học Nhân cách hình thành trong suốt thời kỳ ấu thơ và niên thiếu của con người. Trong đó, với điều kiện phát triển bình thường thì bước vào năm tuổi thứ ba ý thức bản ngã bắt đầu nảy sinh và đến đầu tuổi thanh niên thì nhân cách của con người cơ bản được hình thành. Giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách con người là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo. Ở độ tuổi mẫu giáo lớn [5 – 6 tuổi], nhân cách của trẻ tiếp tục hình thành và phát triển mạnh mẽ với những đặc điểm nổi bật sau: Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng để giúp trẻ điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với chuẩn mực của qui tắc xã hội. Đồng thời, ý thức bản ngã còn cho phép trẻ thực hiện các hoạt động một cách chủ quan. Nhờ đó, quá trình tâm lý mang tính chủ động rõ rệt. Cuối tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ có tốc độ phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ biết tự giác hướng sự chú ý của mình vào đối tượng nhất định. Cho nên, mỗi một đối tượng được tiếp nhận trong thời kỳ này đều có tác động sâu sắc đối với sự phát triển nhân cách và trí tuệ của trẻ. Sức tưởng tượng, khả năng ghi nhớ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng có tính chủ định so với trẻ ở lứa tuổi nhỏ hơn. Trong sự phát triển các hoạt động ý chí của trẻ mẫu giáo lớn có thể thấy được liên kết chặt chẽ giữa ba mặt: thứ nhất là sự phát triển tính mục đích của hành động, thứ hai là sự xác lập mối quan hệ giữa hành động và động cơ, thứ ba là tăng vai trò điều chỉnh của ngôn ngữ trong việc thực hiện hành động. Giai đoạn mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ lứa tuổi mầm non. Ở giai đoạn này những cấu tạo tâm lý đặc trưng của con người được hình thành ở giai đoạn trước vẫn tiếp tục được phát triển mạnh. Với sự giáo dục của người lớn, những chức năng tâm lý đó sẽ được hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi phương diện hoạt động tâm lý [nhận thức, tình cảm, ý chí], để hình thành việc xây dựng cơ sở nhân cách ban đầu của con người. Tóm lại, lứa tuổi mầm non, nhất là độ tuổi mẫu giáo lớn là lứa tuổi rất nhạy cảm với cái đẹp và luôn khao khát được tiếp xúc, khám phá cái đẹp phong phú, đa dạng trong cuộc sống. Đồng dao là một thể loại văn học dân gian có khả năng đáp ứng nhu cầu này của trẻ. Tuy nhiên, trẻ lứa tuổi mầm non thường hát xướng lên các bài đồng dao trong những lúc vui chơi đơn thuần chỉ để giải trí, mà chưa phát huy hết được vai trò to lớn của chúng trong việc phát triển ngôn ngữ đặc biệt là việc làm giàu vốn từ. Có nhiều trẻ hát, đọc các bài đồng dao thuộc lòng mà không hiểu nội dung ý nghĩa của các từ ngữ trong các bài đồng dao đó. Chính vì vậy, các cô giáo Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 8

mầm non đều cần phải hiểu những đặc điểm tâm lý rất cơ bản của trẻ, có như thế thì mới có thể phát huy được sức mạnh của văn học nói chung, đồng dao nói riêng trong việc giáo dục trẻ thơ. 1.1.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non 1.1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận văn học của trẻ mầm non Tiếp nhận văn học gián tiếp: Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, trẻ chưa biết đọc mà mới chỉ dừng lại ở việc nhận biết chữ cái và tập ghép chữ thành tiếng nên việc cảm thụ tác phẩm văn học chủ yếu qua khâu trung gian là cô giáo. Với tư cách là người đọc trực tiếp rồi đọc, kể lại cho trẻ nghe, cô giáo là người giúp trẻ tiếp cận với tác phẩm, hiểu nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, có những ấn tượng sâu đậm về thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học. Cảm nhận văn học mang đậm màu sắc xúc cảm: Tuổi mẫu giáo là thời kỳ nhạy cảm với những “cái đẹp”. Có thể coi đây là thời kỳ phát triển đầy mới mẻ và mạnh mẽ của những xúc cảm thẩm mỹ đối với thế giới xung quanh. Khác với người lớn, sự tiếp nhận văn học vừa mang tính cảm xúc vừa chịu sự chi phối của lí tính, trẻ em tiếp nhận văn học hoàn toàn cảm tính. Khi nghe cô giáo đọc thơ hay kể chuyện trẻ tập trung cao độ vào giọng đọc, kể cũng như cử chỉ, nét mặt, cảm xúc của cô giáo rồi dần biến thành cảm xúc của mình. Trẻ thích thú với những câu chuyện vui, xúc động với những câu chuyện buồn. Trẻ cũng nhăn mặt khi nghe kể về những nhân vật độc ác, mỉm cười khi nghe kể về những nhân vật ngốc nghếch, có những hành động hài hước; có khi trầm tư suy nghĩ, lo âu, hồi hộp muốn biết tình huống tiếp theo xảy ra như thế nào. Tiếp nhận văn học ít bị ràng buộc bởi lý trí và kinh nghiệm mà chứa đựng khả năng tưởng tượng mạnh mẽ: “Đối với trẻ em, những gì làm xúc động mạnh mẽ là phương

tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và tính nhạy cảm phải hoạt động ” . Giàu tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ, gắn liền với năng lực hiểu biết của trẻ. Trong quá trình quan sát trẻ hấp thụ những ấn tượng từ thực tại, cải biến chúng và tạo ra một cách hiểu, cách cảm thụ đầy đủ và sâu sắc hơn trong nhận thức của mình. Trí tưởng tượng được trẻ vận dụng trong tiếp nhận văn học là để đi sâu, mở rộng và thanh lọc đời sống cảm xúc của mình, nhận ra cái mới trong mối quan hệ tưởng như khó gắn kết lại. Qua đó làm nảy sinh khát vọng và khả năng sáng tạo của trẻ khi tiếp xúc tác phẩm văn học. Cảm nhận văn học ngây thơ và triệt để: Tiếp nhận ngây thơ đối với tác phẩm văn học vì trẻ còn rất ít vốn kiến thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Nên những gì được nói đến trong trang sách đều được trẻ tin tưởng tuyệt đối. Trẻ cũng tiếp nhận triệt để tác phẩm văn học vì trong chương trình giáo dục mầm non văn học và âm nhạc là những bộ môn được đưa vào sớm nhất để giáo dục trẻ. Nên Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 9

lượng tri thức có trong các tác phẩm văn học được lựa chọn giới thiệu cho trẻ được trẻ tiếp nhận một cách triệt để nhằm hình thành và phát triển trí tuệ, tâm hồn, tình cảm… 1.1.2.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non Nhu cầu thưởng thức văn học của trẻ mầm non: Ngay từ thưở ấu thơ, trẻ em đã được tiếp xúc với văn học, qua lời hát ru của bà, của mẹ, qua những câu chuyện kể về thế giới thần tiên, qua những vần thơ chứa bao điều kì diệu về cuộc sống xung quanh… Rất tự nhiên, văn học thấm sâu vào tâm hồn các em. Và nghe hát ru, nghe kể chuyện, đọc thơ trở thành một trong những nhu cầu cần thiết đối với cuộc sống của trẻ. Khi trẻ đến trường, việc giới thiệu văn học cho trẻ được nâng lên một vị trí cao hơn, với một mục tiêu rõ ràng và phương pháp bài bản hơn. Điều đó càng khiến cho văn học trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của trẻ. Văn học đối với việc giáo dục trẻ mầm non: Trong số các loại hình nghệ thuật, văn học là loại hình nghệ thuật đặc biệt, có vai trò to lớn không gì thay thế được trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ em. Nhà phê bình văn học Nga V.G.Bielinxki từng nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi là để giáo dục

mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nói quyết định số phận con người” . Là loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học có khả năng đi vào lòng người một cách tự nhiên và sâu sắc. Đối với trẻ em, văn học nói chung, các tác phẩm văn học thiếu nhi nói riêng càng có khả năng tác động trực tiếp, sâu sắc tới đời sống tâm hồn của trẻ. Việc cho trẻ em lứa tuổi mầm non làm quen với tác phẩm văn học từ lâu đã được đặt ra như một nội dung vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non. Văn học đóng vai trò là phương tiện, đồng thời cũng mang các nội dung nhằm: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non: Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giáo dục mầm non, đặc biệt là giáo dục mẫu giáo. Bởi lẽ ngôn ngữ gắn liền với tư duy, nếu trẻ không được trang bị một vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ không thể tăng cường, rèn luyện khả năng tư duy khoa học, chuẩn bị cho việc theo học ở trường phổ thông sau này. Các sáng tác văn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và làm phong phú ngôn ngữ cho trẻ. Bằng các hình tượng nghệ thuật, văn học mở ra và giải thích cho trẻ cuộc sống xã hội và thiên nhiên, thế giới tình cảm và các quan hệ qua lại của con người. Nó làm phong phú những xúc cảm, phát triển trí tưởng tượng và đưa đến cho trẻ những hình tượng tuyệt diệu của ngôn ngữ dân tộc. Đồng thời, vốn ngôn ngữ được sử dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm cũng giúp trẻ thành thạo các phát âm, mở rộng vốn từ, đặc biệt là từ ngữ sử dụng theo phong cách nghệ thuật; giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, nâng cao khả năng diễn đạt [diễn đạt vấn đề một cách sinh động, giàu hình ảnh, giàu tính tạo hình và tính biểu cảm]. Phát triển nhận thức cho trẻ mầm non: Cũng như hầu hết các nội dung giáo dục khác trong chương Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 10

trình giáo dục mầm non, phát triển nhận thức cho trẻ có vị trí hết sức quan trọng và cần thiết. Mục tiêu mở rộng và nâng cao nhận thức cho trẻ mầm non được thực hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau. Hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một hoạt động hữu hiệu giúp trẻ mở rộng, nâng cao nhận thức về cuộc sống xung quanh. Những bài thơ, những câu chuyện đã giúp các trẻ mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết về thế giới tự nhiên, thế giới động vật, thực vật…; giúp trẻ biết được tên gọi, những đặc tính, những quan hệ và những ý nghĩa của chúng đối với con người; giúp trẻ hiểu biết về cuộc sống của con người và những điều cơ bản trong mối quan hệ giữa con người với con người… Có thể nói, với chức năng phản ánh cuộc sống, văn học thiếu nhi như “những cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp trẻ nhận thức và hiểu biết về thế giới xung quanh. Phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non: Văn học luôn đem đến cho trẻ những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng; gợi mở trong các em những xúc cảm thẩm mỹ tốt đẹp, hình thành thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn. Tiếp xúc với tác phẩm văn học là các em được tiếp xúc với cả một thế giới bao la đầy âm thanh và màu sắc với những hình ảnh đẹp đẽ, sinh động, muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên và cuộc sống. Trẻ em lứa tuổi mầm non có một đời sống tâm hồn ngây thơ, chưa có những trải nghiệm cá nhân, sự nhận thức về thế giới xung quanh chủ yếu dừng ở mức cảm tính, gắn với cái cụ thể trước mắt. Chính vì thế, vẻ đẹp lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật và sức tưởng tượng phong phú của các nhà văn trong tác phẩm văn chương là cơ sở để khơi gợi trong tâm hồn các em những rung cảm thẩm mỹ đẹp đẽ và sâu sắc. Phát triển tình cảm xã hội cho trẻ mầm non: Trẻ thơ rất nhạy cảm, dễ rung động. Các em chủ yếu sống và cư xử với tất cả các đối tượng xung quanh bằng tình cảm. Đặc biệt, trẻ khác với người lớn ở chỗ thường bộc lộ thái độ trước một hiện tượng, một sự việc trong cuộc sống một cách rõ ràng: yêu – ghét, vui – buồn, thích không thích… Vì vậy, giáo dục lòng nhân ái cho con người hữu hiệu nhất là bắt đầu giáo dục lòng nhân ái cho trẻ thơ. Một trong những phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ có giá trị độc đáo là văn học. Những bài học đạo đức, nhân văn được gửi gắm trong thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm sẽ tác động một cách tự nhiên mà sâu sắc đến tình cảm của trẻ. Một tấm gương về lòng hiếu thảo, về tình yêu thương và ý thức trách nhiệm đối với người thân, đối với mọi người xung quanh sẽ cho các bé bài học quý giá về nhân cách làm người. Từ đó hình thành ở trẻ một đời sống tình cảm phong phú, nhạy bén, tinh tế. Phát triển thể chất cho trẻ mầm non: Văn học ngoài chức năng phục vụ nhu cầu học tập của các em, còn là yếu tố hữu cơ của các trò chơi sinh hoạt, đưa trẻ vào thế giới của trò chơi nhẹ nhàng, có nhịp điệu làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn. Từ đó phát triển ở trẻ thể chất khỏe mạnh, linh hoạt. Khi trẻ chơi chính là lúc các vận động cơ được phát triển, khả năng tai nghe cũng được vận dụng linh hoạt gợi ra Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 11

những phản ứng vận động của cơ thể [thay đổi nhịp tim mạch, sự tuần hoàn máu, hô hấp và dãn nở cơ]. Trong khi chơi, trẻ không những phối hợp các động tác đi lại vững vàng chạy nhảy nô đùa mà còn có những động tác khó: Lộn cầu vồng, nhảy lò cò… Nhưng trẻ vẫn kết hợp tay chân một cách nhịp nhàng. Qua văn học trẻ không chỉ được học một cách thuần túy mà còn được chơi được vận động, kết hợp nhịp nhàng giữa chân và tay. Vì thế sự định hướng trong không gian, sự lôgic ngôn ngữ bên trong với động tác bên ngoài càng hoàn thiện, giúp trẻ phát triển cân đối hài hòa, có đủ sức khỏe, là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của trẻ. 1.1.3. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non 1.1.3.1. Một số vấn đề chung về đồng dao Gắn liền với những kỉ niệm sâu sắc về thời thơ ấu của mỗi người dân Việt Nam không chỉ có những bài hát ru, mà còn có những bài hát do chính các em hát. Đó là những bài “hát vui chơi”. Nội dung những bài hát vui chơi là những nhận xét, những ý nghĩa và cảm xúc ngây thơ về thế giới tự nhiên, về đời sống con người và đời sống xã hội: 1. Trời mưa, Quả dưa vẹo vọ, Con ốc nằm co, Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn. 2. Con mèo mà trèo cay cau, Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà. Chú chuột đi chợ đường xa, Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo. Những bài hát vui chơi của trẻ em có khi gắn liền với những trò chơi nhất định, cho nên trong những trường hợp ấy còn gọi là những “bài hát trò chơi”. Những bài hát trò chơi, hay những “trò chơi có bài hát” là một sinh hoạt của các em. Cho nên đây là một trong những bộ phận tại thành cái mà chúng ta gọi là “văn học dân gian

thiếu nhi”.

Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 12

1.1.3.2. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non Đồng dao là những câu vè, ngắn gọn có vần điệu nhịp điệu được trẻ con thích

và hát trong khi chơi, trong sinh hoạt cộng đồng . Ngày xưa ở trong các gia đình đứa con từ lọt lòng đến 3 tuổi được trực tiếp hưởng thụ tiếng hát ru khi nằm trong lòng mẹ nhưng từ 3 tuổi trở đi phần lớn đứa con không còn trực tiếp hưởng thụ tiếng hát ru, lời nói nựng của mẹ nữa. Rời khỏi lòng mẹ, đứa trẻ theo anh, theo chị bước sang một môi trường văn hóa khác mang tính chất cộng đồng, cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc đồng dao có thể coi như một sự nối tiếp những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với gia đình, làng xóm, quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ tiếp nhận tiếng hát ru của mẹ một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu để hát và bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa mang tính chất cộng đồng, cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc đồng dao có thể coi như một sự nối tiếp những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với gia đình, làng xóm, quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ tiếp nhận tiếng hát ru của mẹ một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu để hát và bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng. Đặc điểm của đồng dao: Đặc điểm của đồng dao dễ nhận ra trước tiên là có vần điệu rõ ràng nên dễ thuộc, dễ hát: “Mèo già ăn trộm / Mèo ốm phải đòn / Mèo con phải vạ / Con quạ đứt cành / Đòn gánh có mấu / Củ ấu có sừng / Bánh chưng có lá / Con cá có vây”. Những câu trong bài đồng dao thường lặp đi lặp lại theo chu kì một cách tự nhiên: Bồ các là bác chim ri Chim ri là dì sáo sậu Sáo sậu là cậu sáo đen em tu hú Tu hú là chú bồ các. Rồi lại: Bồ các là bác chim ri [Quay đi quay lại nhiều lần] Ngôn ngữ đồng dao nhiều khi kì quặc chắp vá một cách ngẫu nhiên: Nu na nu nống Cái cống nằm trong Con ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 13

Phật ngồi phật khóc Con cóc nhảy ra… – Lôgic của đồng dao là lôgic của trò chơi, không theo lôgic hiện thực, trái với lôgic thực tế, đảo ngược với lôgic cuộc đời, nhiều khi không thể giải thích nổi: Trời làm một trận mưa rào Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô Thóc giống đuổi chuột trong bồ Đong đong cân cấn đuổi bò ngoài ao… hay: Bao giờ cho đến tháng ba Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng Hùm nằm cho lợn liếm lông Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi. Những đặc điểm đó của đồng dao rất gần với đặc điểm của trò chơi. Do đó người ta coi đồng dao như trò chơi, nó thể hiện đặc tính ngộ nghĩnh của trẻ nhỏ nên được các em ưa thích. Nội dung của đồng dao: Tuy ý nghĩa của nhiều câu đồng dao có khi không rõ ràng, thậm chí vô nghĩa, nhưng không phải vì thế mà đồng dao không có nội dung gì. Thực ra nội dung của đồng dao rất phong phú, nó phản ánh nhiều mặt của cuộc sống mà chủ yếu là ở nông thôn. – Rất nhiền bài đồng dao phản ánh những hiện tượng trong thiên nhiên hết sức phong phú giúp trẻ hiểu, gắn bó với môi trường xung quanh: Mây kia sinh ở đằng đông Mây hóa ra rồng mây hiện ra mưa Có khi mây kéo như cờ Mây phẳng như tờ mây lại kéo sang Có khi mây đỏ mây vàng Mây xanh mây tím ngổn ngang đầy trời. hay: Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 14

Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng. – Đồng dao phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người đầy xúc cảm yêu thương, sâu nặng tình người, thường là thông qua thân phận của cái tôm cái tép, con cò con vạc, cái bống cái bang, bằng con mắt nhân cách hóa của trẻ thơ. Cái cò đi đón cơn mưa Tối tăm mù mịt ai đưa cò về Cò về thăm quán cùng quê Thăm cha thăm mẹ, cò về thăm anh. hay: Cái bống là cái bống bang Thổi cơm nấu nước cả nhà cùng ăn Nhà bống có khách sang chơi Cơm bưng nước rót cho vui lòng bà. Chức năng của đồng dao: – Dùng để ru trẻ em: Ru trẻ ngủ chủ yếu là nhiệm vụ của những người mẹ, người bà, nhưng ở nông thôn những đứa trẻ là anh, là chị trong gia đình cũng có nhiệm vụ ru em bé ngủ khi người lớn vắng nhà. Những lời đồng dao nghe rất ngô nghê, nhưng với giai điệu hát ru, trẻ nhỏ cũng đưa em bé của mình vào giấc ngủ ngon lành: Cái ngủ mày ngủ cho lâu Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về Bắt được con trắm con trê Buộc cổ lôi về cho cái ngủ ngon hay: Em tôi buồn ngủ buồn nghê Con tằm đã chín con dê đã mùi Con tằm để lại mà nuôi Con dê đã mùi làm thịt em ăn – Dùng trong khi chơi: Nhân dân ta có một kho tàng trò chơi dân gian hết sức phong phú mà điều đặc biệt thú vị là phần lớn trò chơi đều đi kèm với lời đồng dao Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 15

rất ngộ nghĩnh làm tăng thêm sự cuốn hút của trò chơi đối với trẻ em. Những trò chơi đó được truyền tụng từ đời này sang đời khác cho đến ngày nay, như trò chơi “Kéo cưa lừa xẻ”, “Chi chi chành chành”, “Rồng rắn lên mây”, “Trồng nụ trồng hoa”, “Thả đỉa ba ba”… Tác dụng của đồng dao đối với trẻ mầm non: Đồng dao có tác động giáo dục mạnh mẽ đối với trẻ em, trước hết là nó giáo dục thái độ văn hóa đối với hai mối quan hệ chủ yếu của con người: con người – thiên nhiên, con người – xã hội. – Giáo dục tình yêu đối với thiên nhiên: Đồng dao gợi nên ở các em nhỏ tình yêu hồn nhiên đối với cái ong cái kiến, con cò con vạc, con trâu con nghé; cây cỏ, chim chóc qua các bài gọi nghé của trẻ mục đồng, qua những bài giới thiệu các loài chim muông, hoa quả,… – Giáo dục lòng nhân ái: Đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, cha mẹ, bà con xóm làng; đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn lòng giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật. Có thể nói là đồng dao là những bài học đạo đức rất nhẹ nhàng mà hấp dẫn đối với các em nhỏ. Nhưng nhiều hơn hết đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho trẻ em những niềm vui sướng vô tư, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa chính tính hài hước hóm hỉnh của đồng dao đã bồi đắp cho trí tuệ của trẻ thêm thông minh, sắc sảo. Trẻ không những tiếp nhận những điều hợp lí mà còn phát hiện ra những điều phi lí không đúng với cuộc sống bình thường, trẻ biết tiếp nhận văn hóa không chỉ ở những mệnh đề xuôi mà ngay cả ở ngững mệnh đề ngược với logic. Trong mớ bong bong lộn xộn đó của sự vật mà lại biết lần ra chân lí thì mới thật là giỏi thật là tài. – Đồng dao có giá trị rất to lớn trong đời sống văn hóa của trẻ em ngày xưa và nó vẫn có thể còn nguyên giá trị đối với trẻ em chúng ta trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta biết thổi vào đó luồng gió mới của thời đại. Với tinh thần đó nhiều nhạc sĩ đã phổ nhạc cho những khúc đồng dao cổ làm cho nó sống dậy một cách sinh động hơn, mới mẻ hơn và hấp dẫn hơn. 1.1.4. Vai trò của đồng dao đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn Ngôn ngữ là kho tàng trí tuệ của loài người. Nó chứa đựng và làm sống dậy những thành tựu do xã hội loài người xây dựng nên. Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ là công cụ của tư duy. Vốn từ ngữ cá nhân phản ánh năng lực tư duy, năng lực trí tuệ của cá nhân đó. Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới và cả Việt Nam đã chứng minh lợi ích của việc can thiệp vào lứa tuổi mầm non là rất to lớn và lâu dài. Có thể thấy ngôn ngữ của trẻ chủ yếu được phát triển bằng con đường trực quan cụ thể, cảm giác và tri giác là quá trình đầu tiên của quá trình Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 16

nhận thức. Sự nhận thức về sự vật càng phong phú thì số lượng từ ngữ ngày càng dồi dào và sâu sắc. Khi đứa trẻ đã lớn, nhận thức của trẻ phát triển. Trẻ không chỉ dừng lại ở những nhận thức về sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ mà còn muốn biết cả về những điều trẻ không trực tiếp nhìn thấy, trẻ muốn biết về quá khứ, tương lai. Muốn biết về công việc của người lớn, của cha mẹ, muốn hiểu về chú bộ đội, về Bác Hồ kính yêu… Khi đã có một vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt những hiểu biết, những suy nghĩ, những cảm xúc của mình. Trẻ hiểu được lời chỉ dẫn của người lớn, của cô giáo thì các hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy của trẻ được chính xác, kích thích trẻ tích cực hoạt động, kích thích trẻ nói từ đó sự hiểu biết của trẻ ngày càng được nâng lên. Trẻ dùng ngôn ngữ để đặt ra muôn vàn câu hỏi, yêu cầu, nguyện vọng, thể hiện thái độ, tình cảm yêu, ghét… Biểu hiện bằng ngôn ngữ giúp cho nhận thức của trẻ được củng cố sâu sắc hơn, tạo cho trẻ được sống trong môi trường có các hoạt động giao tiếp, trên cơ sở đó nảy sinh nhiều suy nghĩ sáng tạo mới. Mặt khác với những tri thức đơn giản gần gũi đồng dao gợi lên tình yêu hồn nhiên của trẻ em đối với con ong, cái kiến, con cò, con vạc, con trâu, con nghé… Các bài hát gọi mẹ gọi nghé của trẻ mục đồng, bài hát giới thiệu các loài chim muông, hoa quả hoặc những sự vật xung quanh [đồ dùng để làm ruộng, đồ dùng trong nhà,

trong bếp…] vừa là đồng dao vừa là một kiểu bài hát trong trong trò chơi, các em

Xem thêm: mở file dbf bằng excel

theo lời hát mà chỉ ra sự vật. Những bài đồng dao trong trò chơi cung cấp cho trẻ những kiến thức về xã hội. Trẻ tập đi mua bán, tập làm nhà cửa, tập cưỡi trâu, cưỡi ngựa trong tưởng tượng. Có những bài hát chỉ về nghề nghiệp trong xã hội có phân công và có cả những bài hát chế giễu những thói hư tật xấu. Nổi bật lên là những chủ điểm về đồng áng và cày cấy, đối với em gái là kiến thức về nữ công gia chánh. Trong khi chơi các em tiếp thu những điều hay lẽ phải, rèn luyện những thói quen cần thiết cho cuộc sống hiện nay và sau này một cách tự nhiên và thoải mái. Chính vì thế đồng dao với những đặc trưng vốn có của nó rất phù hợp với đặc điểm của trẻ lứa tuổi mẫu giáo nói chung và mẫu giáo lớn nói riêng. Đồng dao có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ đặc biệt là làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn. Những bài đồng dao giúp mở rộng vốn từ cho trẻ về môi trường tự nhiên [thế giới động vật, thế giới thực vật, các hiện tượng tự nhiên], môi trường xã hội,… Thông qua đó giúp trẻ hiểu nghĩa của một số từ ngữ, cách sử dụng chúng trong những hoàn cảnh khác nhau Thực trạng nhận thức của giáo viên đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ thông qua các bài đồng dao giảng dạy trong trường Mầm non, cho đối tượng trẻ mẫu giáo lớn [5 – 6 tuổi] Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 17

CHƯƠNG 2 BIỆN PHÁP LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA CÁC BÀI ĐỒNG DAO 2.1. Biện pháp sưu tầm các bài đồng dao Sau đây tôi xin giới thiệu một số bài đồng dao theo một số chủ đề, chủ điểm quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non: – Chủ đề Bản thân 1. Bà còng đi chợ trời mưa Cái tôm cái tép đi đưa bà còng Đưa bà đến quãng đường đông Đưa bà về tận ngõ trong nhà bà Tiền bà trong túi rơi ra Cái tôm nhặt được trả bà mua rau. 2. Đi cầu đi quán Đi bán lợn con Đi mua cái xoong Đem về đun nấu Mua quả dưa hấu Về biếu ông bà Mua một con gà Về cho ăn thóc Mua lược chải tóc Mua cặp cài đầu Đi mau về mau Kẻo trời sắp tối. 3. Gánh gánh gồng gồng Gánh sông gánh núi Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 18

Gánh củi, gánh cành Ta chạy cho nhanh Về xây cái bếp Nấu nồi cơm nếp Chia ra năm phần Một phần cho mẹ Một phần cho cha Một phần cho bà Một phần cho chị Một phần cho anh Ta chạy cho nhanh Về xây cái bếp. – Chủ đề Thế giới động vật 1. Con vỏi con voi Cái vòi đi trước Hai chân trước đi trước Hai chân sau đi sau Còn cái đuôi Đi sau rốt Tôi xin kể nốt Cái chuyện con voi 2. Rì rà rì rà Đội nhà đi chơi Đến khi tối trời Úp nhà lên ngủ Khi mặt trời mọc Lại thò đầu ra. Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 19

3. Tu hú là chú bồ các Bồ các là bác chim ri Chim ri là dì sáo sậu Sáo sậu là sáo đen Sáo đen là em tu hú Tu hú là chú bồ các. – Chủ đề Thế giới thực vật 1. Cây cam cây quýt Cây mít cây hồng Ta trồng ta ăn Ai trồng thiếu Thì trồng thêm. 2. Ve vẻ vè ve Nghe vè cây trái Dây ở trên mây Là trái đậu rồng Có con thật đông Là trái đu đủ Chặt ra nhiều mủ Là trái mít ướt Hình tựa gà xướt Vốn thiệt trái thơm Cái đầu chơm bơm Là trái bắp nấu Hình thù xấu xấu Là trái cà dê… Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 20

3. Lúa ngô là cô đậu nành Đậu nành là anh dưa chuột Dưa chuột là ruột dưa gang Dưa gang là nàng dưa hấu Dưa hấu là cậu lúa ngô Lúa ngô là cô đậu nành – Chủ đề Trường mầm non của bé 1. Nu na nu nống Cái bống nằm trong Con ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Phật ngồi Phật khóc Con cóc nhảy ra Con gà ú ụ Nhà mụ thổi xôi Nhà tôi nấu chè Tay xòe chân rụt. 2. Kéo cưa lừa xẻ Ông thợ nào khỏe Về ăn cơm vua Ông thợ nào thua Về bú tí mẹ 3. Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến cổng nhà trời Lạy cậu lạy mợ Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 21

Cho cháu về quê Cho dê đi học Cho cóc ở nhà Cho gà bới bếp Xì xà xì xụp Ngồi thụp xuống đây. – Chủ đề Nghề nghiệp 1. Rềnh rềnh ràng ràng Ba gang chiếu trải Xích lại cho gần Một người hai chân Hai người bốn chân Ba người sáu chân Bốn người tám chân Chân gầy chân béo Dệt vải cho bà Vải hoa vải trắng Đến mai trời nắng Đem vải ra phơi Đến mốt đẹp trời Đem ra may áo Rềnh rềnh ràng ràng. 2. Mười ngón tay Ngón đi cày Ngón tát nước Ngón cầm lược Ngón chải đầu Ngón đi trâu Ngón đi cấy Ngón cầm lẫy Ngón đánh cò Ngón chèo đò Ngón dò biển Tôi ngồi tôi đếm Mười ngón tay Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 22

3. Một tay đẹp Hai tay đẹp Ba tay đẹp Tay dệt vải Tay vãi rau Tay buông câu Tay chặt củi Tay đắp núi Tay đào sông Tay cạo lông Tay mổ lợn Tay bắt vượn Tay bắt voi Tay bẻ roi

Tay đánh hổ.

– Chủ đề Quê hương đất nước, Hiện tượng tự nhiên 1. Thứ nhất là nắng tháng ba Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non Tháng năm nắng đẹp nắng giòn Tháng sáu có nắng bóng tròn về trưa… 2. Sao hôm lóng lánh Sao mai lóng lánh Cuốc đã sang canh Gà kia gáy rạng… 2.2. Biện pháp đọc diễn cảm đồng dao kết hợp với đàm thoại, giảng giải nội dung Đọc diễn cảm đồng dao là một biện pháp tích cực hóa vốn từ của trẻ. Khi cô giáo hướng dẫn trẻ tự đọc diễn cảm bài đồng dao, trẻ sẽ gọi tên, kể ra các đặc điểm của các loại hoa quả, con vật và đó là điều kiện để các từ ngữ ở trạng thái bị động chuyển thành chủ động, tích cực. Sau khi hướng dẫn trẻ đọc diễn cảm bài đồng dao cô cần đàm thoại, giảng giải để giúp trẻ hiểu được nội dung của bài đồng dao. Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 23

Đàm thoại là phương pháp giáo viên sử dụng các câu hỏi có mục đích, có định hướng, có kế hoạch trước để trao đổi với trẻ, giúp trẻ hiểu và cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc và có hệ thống. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới đối tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể cũng như quan sát tỉ mỉ các đặc điểm, tính chất các mối quan hệ của các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ nói, gọi tên hoặc mô tả các đối tượng quan sát. Qua đó vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng hơn. Trong quá trình trao đổi, cô giáo cần hướng sự chú ý của trẻ vào vấn đề mấu chốt, tránh sa đà. Cô giáo không ép buộc trả lời câu hỏi của trẻ nhưng cần hướng câu trả lời của trẻ vào nội dung của bài đồng dao. Đàm thoại với trẻ, cô giáo không chỉ giúp trẻ tự tin, độc lập nói lên những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình về bài đồng dao, mà còn giúp các cháu tranh luận, trao đổi với nhau về một ấn tượng, một sự cảm nhận mà chúng đã tiếp thu được từ tác phẩm. Trẻ không chỉ trao đổi với cô mà còn trao đổi trong nhóm bạn bè, tức chúng được chia sẻ với nhau. Cô giáo nên coi mình là một thành viên ở trong nhóm chứ không phải là người đứng cao hơn để áp đặt trẻ. Vai trò tích cực của tập thể trẻ sẽ giúp cô giáo giải quyết được nhiệm vụ và mục đích đặt ra trong quá trình đàm thoại. Cô nên cố gắng động viên để tất cả các trẻ cùng tham gia vào đàm thoại. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng, buộc trẻ trả lời bằng các từ loại khác nhau: Hỏi về tên gọi, đặc điểm, tính chất, công dụng, hoạt động,… của đối tượng có trong bài đồng dao. Ví dụ: Câu hỏi về các loại hoa quả, cây cối, con vật: cây gì đây?, đây là con gì?, đây là quả gì? Câu hỏi về công dụng của đồ vật: …để làm gì? Trong quá trình đàm thoại cô cũng nên kết hợp với giảng giải khi phát hiện ra những chi tiết mà trẻ chưa hiểu hoặc chưa rõ để kịp thời điều chỉnh nhận thức của trẻ. Tuy nhiên, nếu trẻ trả lời sai, cô cũng không nên nhận xét một cách “thẳng thắn” quá, làm trẻ cảm thấy “mất hứng” thậm chí xấu hổ với bạn bè. Cô có thể khéo léo phân tích, động viên trẻ suy nghĩ thêm. Thực tế cho thấy, trẻ không bao giờ thờ ơ với thái độ trước những câu trả lời của chúng. Cô giáo nên động viên, khuyến khích, đặc biệt là phải tỏ thái độ tôn trọng, tin tưởng ở trẻ. Như thế mới có thể tạo nên sự kích hoạt cảm xúc và tư duy của trẻ. Giá trị của việc đàm thoại còn là nâng cao sự hứng thú của trẻ trong quá trình tiếp xúc với văn học. Sẽ là sai lầm nếu chúng ta bắt trẻ nghe một bài đồng dao và đọc thuộc một bài đồng dao đó mà không hiểu gì về nội dung của câu chuyện đó. Việc đọc diễn càm bài đồng dao cho trẻ nghe cần kết hợp cần kết hợp chặt chẽ với quá trình giảng giải và đàm thoại với trẻ. Điều đó sẽ giúp cho trẻ có thái độ nhận thức đối với bài tác phẩm. Như vậy, nguyên tắc chung là trước khi cho trẻ đọc diễn cảm bài đồng dao, cô phải Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh

Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 24

giúp trẻ nắm được nội dung chính của tác phẩm chuẩn bị tâm thế cho trẻ để trẻ có thể cảm thụ tác phẩm được tốt. Việc giảng giải, chủ yếu là giải thích các từ mới, từ khó có thể được tiến hành trước hoặc ngay trong quá trình cô giáo đọc, kể tác phẩm cho trẻ nghe. Những từ mới, từ khó nếu không được giải thích cụ thể, trẻ sẽ khó có thể hiểu được tác phẩm. Nhưng nếu cô không tìm được cách giải thích đơn giản và dễ hiểu nhất, trẻ sẽ càng thấy rối tung lên. Cô có thể giải thích gắn với lời đọc diễn cảm. Cần phải chú ý, đồng dao là thể loại thuộc tác phẩm trữ tình. Thể loại này khác với các thể loại văn học khác chúng có đặc trưng riêng về nội dung và thể thơ. Đồng dao chủ yếu theo thể thơ 4 chữ: Nu na nu nống Cái bống nằm trong Con ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Phật ngồi Phật khóc Con cóc nhảy qua Con gà ú ụ Nhà mụ thổi xôi Nhà tôi nấu chè Chân tay xòe rụt. Về cơ bản khi đọc diễn cảm và hướng dẫn trẻ đọc đồng dao giáo viên phải đảm bảo các bước, các yêu cầu như xác định giọng điệu cơ bản, ngữ điệu, cách ngắt giọng thơ ca, ngắt giọng tâm lý, nhịp điệu, cường độ giọng đọc. Nhưng vì đồng dao có những đặc trưng riêng, đa phần các bài ca đều có nội dung phản ánh hoặc gắn với các trò chơi của trẻ nhỏ, có sắc thái vui tươi, hồn nhiên nên giọng đọc diễn cảm của cô và trẻ cần nhanh, sôi nổi, nhí nhảnh, vui tươi. Từ việc đọc diễn cảm đồng dao theo đặc trưng thể loại, giáo viên cần kết hợp chặt chẽ và linh hoạt với các biện pháp đàm thoại giảng giải nội dung tác phẩm cho trẻ hiểu và thấm sâu vào trong môi trường nghệ thuật của bài ca. Cách giải thích có thể linh hoạt kết hợp với lời giảng giải của cô và các phương tiện trực quan làm tăng tính chất thuyết phục cũng như tạo được niềm hứng thú của trẻ Chẳng hạn bài đồng dao: Ve vẻ vè ve Nghe vè cây trái Dây ở trên mây

trái đậu rồng

Là Có

con thật đông

Sinh viên thực hiện: Vũ Khánh Linh
Lớp: Đại Học Giáo Duc Mầm Non B K56

Trang 25

Tài liệu liên quan

“một số biện pháp thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi ở trường mầm non 19 9 37

ĐỀ ÁN PHỔ CẬP GIÁO DỤC MẦM NON CHO TRẺ EM NĂM TUỔI GIAI ĐOẠN 2010-2015 49 1 6

Van ban thong bao dang ky thoi gian hoan thanh ke hoach pho cap giao duc mam non cho tre em nam tuoi giai doan 2010-2015 1 446 0

Một số giải pháp quản lý công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi ở huyện châu thành, tỉnh đồng nai 138 956 7

SKKN Một số biện pháp thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi MẪU GIÁO BÌNH THỚI 30 1 1

SKKN một số kinh nghiệm làm hồ sơ trong việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi 16 326 0

Xem thêm: Hệ Phương Trình 2 Ẩn Lớp 10, Toán Lớp 10: Hệ Phương Trình Bậc Nhất 2 Ẩn Số

Biện pháp phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi ở huyện đồng văn tỉnh hà giang 118 596 0

skkn một số biện pháp chỉ đạo thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tiểu luận

Video liên quan

Chủ Đề