1. Bản chất của nhận thức
Khi trình bày bản chất của nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện một số quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
1.1. Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trướcMác
Xuất
phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, chủ
nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh
hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hoặc là sự “tự ý thức về mình của ý
niệm tuyệt đối”. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng nhận thức
chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người.
Những
người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự
vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên
tắc của nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả
năng nhận thức của con người. Họ cho rằng con người chỉ nhận thức được
các thuộc tính bề ngoài, còn bản chất bên trong của sự vật thì không thể
nhận thức được.
Đối
lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận
thức của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực quan,
siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản
ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật.
Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Như
vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác-
Lênin đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề
về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt
chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
1.2. Quan niệm về bản chất nhận thức của triết học Mác- Lênin
Bằng
sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các
thành tựu khoa học, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện
chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc
cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm
khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa
trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.
Hai là,
thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt
động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận
thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi.
Ba là,
khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.
Bốn là,
coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa
trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức
là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
2.1. Phạm trù thực tiễn
Trong
lịch sử triết học trước Mác, các trào lưu đều có quan niệm chưa đúng,
chưa đầy đủ về thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là
hoạt động tinh thần của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật
chất. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hiểu được thực tiễn là
hành động vật chất của con người nhưng lại xem nó là hoạt động con buôn
đê tiện, không có vai trò gì đối nhận thức của con người.
Triết
học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù
nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói
riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong
triết học.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực
tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử
- xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác
với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng và bản chất
của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không
ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Do vậy,
thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính
lịch sử - xã hội.
Hoạt
động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất,
hoạt động chính trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt
động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây
là hoạt động mà con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra sản phẩm vật chất nhằm duy trì sự tồn tại thiết yếu của
mình.
Hoạt
động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác
nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển.
Thực
nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong đều kiện do con người
tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và
xã hội nhằm xác định các quy luật vận động của đối tượng
nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, nó có vai trò
ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.
Giữa
các dạng hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hoạt
động sản xuất vật chất là cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định. Bởi vì
nó là hoạt động khách quan, thường xuyên nhất tạo ra điều kiện cần thiết
để con người tồn tại và phát triển; đồng thời cũng tạo điều kiện để
tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn các dạng hoạt động khác nếu tiến
bộ thì tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất vật chất được tăng cường,
nếu phản tiến bộ thì kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.
Chính
sự tác động lẫn nhau giữa các dạng [hình thức] hoạt động làm cho thực
tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng
đối với nhận thức.
2.2.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Con
người luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo thế
giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự
vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự vật
vận động, biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên
trong. Các thuộc tính và mối liên hệ đó được con người ghi nhận chuyển
thành những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản
chất các quy luật phát triển của thế giới. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu
cầu cần đo đạc diện tích, đo sức chứa của các bình mà toán học ra đời và
phát triển... Suy cho đến cùng không có một lĩnh vực nào lại không xuất
phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ hướng dẫn thực tiễn.
Mặt
khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng
được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát
triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác
dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế
giới. Chẳng hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất... mà đòi
hỏi các môn khoa học quản lý ra đời và phát triển.
Hơn
nữa, nhận thức ra đời và không ngừng hoàn thiện trước hết không phải vì
bản thân nhận thức mà là vì thực tiễn, nhằm giải đáp các vấn đề thực
tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định hướng hoạt động thực tiễn. Chẳng hạn,
các môn khoa học quản lý ra đời nhằm giúp các nhà quản lý tìm ra các
biện pháp nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Như
vậy, thực tiễn vừa là cơ sở, động lực vừa là mục đích của nhận thức.
Không những thế thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận
thức, kiểm tra chân lý. Bởi vì nhận thức thường diễn ra trong cả quá
trình bao gồm các hình thức trực tiếp và gián tiếp, điều đó không thể
tránh khỏi tình trạng là kết quả nhận thức không phản ánh đầy đủ các
thuộc tính của sự vật. Mặt khác, trong quá trình hình thành kết quả nhận
thức thì các sự vật cần nhận thức không đứng yên mà nằm trong quá trình
vận động không ngừng. Trong quá trình đó, nhiều thuộc tính, nhiều mối
quan hệ mới đã bộc lộ mà nhận thức chưa kịp phản ánh. Để phát hiện mức
độ chính xác, đầy đủ của kết quả nhận thức phải dựa vào thực tiễn. Mọi
sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm
tra của thực tiễn chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Qua thực
tiễn để bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện kết quả
nhận thức. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề
lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý”.
Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm mà V.I Lênin đã đưa ra: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”.
Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng
kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học
đi đôi với hành.
3. Các cấp độ của quá trình nhận thức
Nhận
thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều
giai đoạn, hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu mà
quá trình đó được phân ra thành cấp độ khác nhau: nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học.
3.1. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
a. Nhận thức cảm tính
[hay còn gọi là trực quan sinh động] là giai đoạn đầu tiên của quá
trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác
động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm các
hình thức sau:
- Cảm giác
là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của
các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan
của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả
của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý
thức. Lênin viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Nếu
dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể,
riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất
của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận
thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
- Tri giác
là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi
sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác
là sự tổng hợp các cảm giác.
So
với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú
hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc
trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi
phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không
đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp
tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên
hình thức nhận thức cao hơn.
- Biểu tượng
là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do
sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực
tiếp vào các giác quan.
Trong
biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián
tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau
của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp.
Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của
các sự vật.
Như vậy, nhận thức cảm tính có đặc điểm:
Là giai đoạn nhận thức trực tiếp sự vật, phụ thuộc vào mức độ hoàn
thiện cơ quan cảm giác, kết quả thu nhận được tương đối phong phú, phản
ánh được cả cái không bản chất, ngẫu nhiên và cả cái bản chất và tất
nhiên. Hạn chế của nó là, chưa khẳng định được những mặt, những mối liên
hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải
vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
b. Nhận thức lý tính
[Tư duy trừu tượng] là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái
quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán,
suy luận.
- Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật.
Sự
hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng
các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái
niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
- Phán đoán
là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để
khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí
dụ: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đoán. Bởi vì
có sự liên kết khái niệm “dân tộc” “Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”.
Theo
trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại
là phán đoán đơn nhất [ví dụ: đồng dẫn điện], phán đoán đặc thù [ví dụ:
đồng là kim loại] và phán đoán phổ biến [ví dụ: mọi kim loại đều dẫn
điện]. Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao
quát rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu
chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ
giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất
trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết
được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến.
Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc
tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các
thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức
lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
- Suy luận
là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ,
nếu liên kết phán đoán “đồng dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại”
ta rút ra được tri thức mới “mọi kim loại đều dẫn điện”. Tùy theo sự kết
hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ
biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Từ
ba hình thức trên ta có thể rút ra giai đoạn nhận thức lý tính có đặc
điểm sau: Là giai đoạn nhận thức gián tiếp, trừu tượng, khái quát sự
vật. Nhận thức lý tính phụ thuộc vào năng lực tư duy của con người. Do
đó phản ánh được chính xác mối liên hệ bản chất tồn tại bên trong một sự
vật hay một lớp các sự vật.
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với lý tính
Nhận
thức cảm tính và lý tính có cùng chung đối tượng phản ánh, đó là các sự
vật; cùng chung chủ thể phản ánh đó là con người và cùng do thực tiễn
quy định. Đây là hai giai đoạn hợp thành quá trình nhận thức. Do vậy,
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biểu hiện: Nhận thức cảm tính là
cơ sở cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính nhờ có
tính khái quát cao hiểu được bản chất nên đóng vai trò định hướng cho
nhận thức cảm tính để có thể phản ánh được sâu sắc hơn.
Nếu
nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người chỉ có được
những tri thức về đối tượng. Còn bản thân tri thức đó có chân thực hay
không thì chưa khẳng định được. Muốn khẳng định, nhận thức phải trở về
thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn.
3.2. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
a. Nhận thức kinh nghiệm
Đây
là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại,
tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm thông thường
là loại tri thức được hình thành từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày về
cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất phong phú, nhờ có tri thức này
con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để điều chỉnh hoạt động hàng
ngày.
- Tri thức kinh nghiệm khoa học
là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí nghiệm khoa học, loại
tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để hình thành nhận thức khoa
học và lý luận.
Hai
loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để
tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
b.Nhận thức lý luận [gọi tắt là lý luận]
Đây
là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy
luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì
nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm.
Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung
phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do
đó, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có
hệ thống hơn.
Nhận
thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau, có quan hệ biện chứng với nhau.Trong đó nhận thức kinh nghiệm là
cơ sở của nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư
liệu phong phú, cụ thể. Vì nó gắn chặt với thực tiễn nên tạo thành cơ sở
hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận và cung cấp tư
liệu để tổng kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ
tổng kết kinh nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát
từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi
trước những sự kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành tri thức kinh
nghiệm có giá trị, lựa chọn kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động
thực tiễn. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái
cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến.
Nắm
vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức đó cũng như mối quan
hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trọng
việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều.
3.3. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Khi
căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự
vật thì nhận thức lại có thể được phân ra thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
a. Nhận thức thông thường
[nhận thức tiền khoa học] là loại nhận thức được hình thành một cách tự
phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh
sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và
những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường
mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế
hàng ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của con người
trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại
ở bề ngoài, ngẫu nhiên tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học
được.
b. Nhận thức khoa học
là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự
phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật.
Nhận
thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có
tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách hệ
thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và
thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật
của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày
càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học
và công nghệ.
Như
vậy, nhận thức thông thường và nhận thức khoa học có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận
thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa
học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác
động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông
thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức
thế giới của con người.
4. Vấn đề chân lý và tiêu chuẩn của chân lý
4.1. Khái niệm chân lý
Có
nhiều quan điểm khác nhau về chân lý. Các nhà thực chứng cho rằng chân
lý là những tư tưởng, quan điểm được nhiều người thừa nhận. Đây là một
quan điểm phiến diện, bởi vì trong thực tế có những quan điểm được nhiều
người thừa nhận nhưng lại không đúng đắn.
Chủ
nghĩa phát xít lại đưa ra quan điểm coi chân lý là những luận điểm của
kẻ mạnh, chân lý thuộc về kẻ mạnh. Đây là quan điểm sai lầm, bởi vì dùng
yếu tố chủ quan để xác định giá trị của những tri thức phản ánh thuộc
tính khách quan.
Bác
bỏ những quan điểm sai lầm đó, triết học Mác - Lênin cho rằng, chân lý
là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm. Như vậy chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế
giới của con người. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
4.2. Các tính chất của chân lý
a. Chân lý có tính khách quan.
Tính khách quan của chân lý biểu hiện nội dung phản ánh của chân lý độc
lập với ý thức của con người và loài người, không phải là sản phẩm
thuần tuý chủ quan, mà nội dung nó thuộc về khách quan, do thế giới
khách quan quy định.
Ví
dụ, luận điểm cho rằng: “Trái đất quay xung quanh mặt trời” là một chân
lý. Chân lý ấy có tính khách quan bởi vì nội dung luận điểm đó phản ánh
đúng sự kiện có thực, tồn tại độc lập đối với mọi người.
Khẳng
định chân lý có tính khách quan là một trong những đặc điểm nổi bật
dùng để phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng
so với chủ nghiã duy tâm và thuyết không thể biết. Vì vậy trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách
quan, hoạt động theo quy luật khách quan.
b. Chân lý có tính tuyệt đối và tính tương đối. Tính tuyệt đối của chân lý là
tính phù hợp hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với
hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, con người có thể đạt tới tính tuyệt
đối của chân lý. Bởi vì, khả năng nhận thức của con người là vô hạn.
Song khả năng đó bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể, bởi điều kiện
xác định về không gian, thời gian.
Tính
tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa
nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó
có nghĩa giữa nội dung của chân lý với khách thể phản ánh chỉ mới phù
hợp từng phần, từng bộ phận, ở một khía cạnh nào đó.
Tính
tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà
có sự thống nhất biện chứng với nhau. Tính tuyệt đối của chân lý là tổng
số các tính tương đối; ngược lại, trong mỗi tính tương đối bao giờ cũng
chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối.
Nhận
thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuỵêt
đối của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu hoá tính
tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối sẽ rơi vào quan điểm siêu
hình, giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại nếu tuyệt đối hoá tính
tương đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối; từ đó dẫn đến chủ quan, chủ
nghĩa xét lại, thuật nguỵ biện.
c. Tính cụ thể của chân lý.
Điều đó có nghĩa mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung
nhất định. Nội dung đó không phải sự trừu tượng thuần tuý thoát ly hiện
thực mà luôn gắn bó với một đối tượng, diễn ra trong một không gian,
thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong mối liên hệ, quan hệ cụ thể.
Vì vậy, bất cứ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử -
cụ thể. Nếu thoát ly tính cụ thể, thì những tri thức được hình thành
trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần tuý. Lênin
viết: “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc
nắm vững nguyên tắc tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét,
đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, việc làm của con người phải dựa trên
quan điểm lịch sử - cụ thể; Phải xuất phát từ điều kiện cụ thể mà vận
dụng lý luận chung cho phù hợp.
Như
vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tương đối, tuyệt đối và tính
cụ thể. Các tính chất đó không tách rời nhau mà quan hệ chặt chẽ với
nhau. Thiếu một trong những tính chất đó thì những tri thức đạt được
không thể có giá trị đối với đời sống của con người.
4.3.Tiêu chuẩn của chân lý
Khi bàn đến tiêu chuẩn để đánh giá chân lý, có nhiều quan điểm khác nhau.
Chủ nghĩa duy tâm quan niệm, tính rõ ràng, tính chặt chẽ là tiêu chuẩn để đánh giá chân lý.
Có quan điểm cho rằng, lấy việc được nhiều người thừa nhận làm tiêu chuẩn để đánh giá chân lý.
Chủ
nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, chân lý là kết quả của quá trình
nhận thức khoa học nên bao giờ cũng đảm bảo tính rõ ràng, chặt chẽ và
sớm hay muộn cũng sẽ được nhiều người thừa nhận, nhưng đó chưa phải là
tiêu chuẩn để đánh giá chân lý; tiêu chuẩn để đánh giá nhận thức không
thể nằm trong nhận thức mà phải cao hơn nhận thức. C.Mác đã viết: “Vấn
đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Như vậy tiêu chuẩn sát thực để đánh giá chân lý là thực tiễn, tiêu chuẩn
đó quy định nhận thức không thể đạt ngay đến trạng thái vĩnh cửu.
5. Các phương pháp nhận thức khoa học
5.1. Khái niệm phương pháp
Thuật
ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng HyLạp là “methođos” và được hiểu
theo hai nghĩa khác nhau. Theo nghĩa thông thường là cách thức, con
đường, thủ đoạn được chủ thể sử dụng để đạt được mục đích nào đó. Theo
nghĩa khoa học là hệ thống những nguyên tắc mà chủ thể phải nhất quán
thực hiện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt
được mục đích đặt ra.
Phương
pháp có vai trò quan trọng trong hoạt động của con người. Nó là công cụ
có tính quyết định khi phương hướng nghiên cứu cải tạo sự vật đã được
xác định đúng đắn. Vì vậy, các nhà triết học và khoa học rất chú trọng
đến phương pháp.
Đối
tượng nghiên cứu rất đa dạng, nên các phương pháp nghiên cứu cũng hết
sức phong phú. Tùy theo tiêu chí khác nhau mà phương pháp được chia
thành các loại khác nhau. Nếu dựa vào phạm vi ứng dụng thì có phương
pháp riêng, phương pháp chung, phương pháp phổ biến. Nếu dựa vào mục
đích và chức năng thì có phương pháp hoạt động thực tiễn và phương pháp
nhận thức. Việc phân chia các loại phương pháp có tính tương đối. Trong
mỗi phương pháp có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng có mối quan hệ
biện chứng, hỗ trợ nhau trong quá trình nhận thức và cải tạo hiện thực.
Cần
phân biệt phương pháp với phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận
để xác định phương pháp. Do vậy, tương ứng với sự phân chia phương pháp
ở trên; phương pháp luận có thể phân chia thành phương pháp luận riêng,
phương pháp luận chung, phương pháp luận phổ biến.
5.2. Một số phương pháp nhận thức khoa học
Có
thể phân chia một cách tương đối nhận thức khoa học thành hai nhóm:
phương pháp thu nhận các tri thức kinh nghiệm, phương pháp xây dựng và
phát triển các lý thuyết khoa học.
a. Các phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm
- Quan sát:
là một phương pháp nhận thức thông qua các giác quan và phương tiện để
xác định các thuộc tính, các quan hệ của các sự vật, hiện tượng riêng lẻ
trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó. Như vậy kết quả quan sát phụ
thuộc vào độ hoàn thiện của cơ quan cảm giác và mức độ tinh sảo của các
dụng cụ, phương tiện. Khác với quan sát thông thường, trong quan sát
khoa học, chủ thể có chủ định trước, có chương trình kế hoạch nghiêm
ngặt để thu thập các sự kiện khoa học chính xác. Quan sát một mặt giúp
chủ thể thu thập các thuộc tính nào đó về sự vật, mặt khác giúp chủ thể
khẳng định một kết quả nhận thức đã có.
- Thí nghiệm:
là phương pháp nhận thức mà chủ thể chủ động tác động tới sự vật, hiện
tượng làm thay đổi điều kiện tồn tại tự nhiên của nó, buộc nó phải bộc
lộ những thuộc tính cần thiết cho chủ thể nhận thức. Thí dụ, thực hiện
thí nghiệm sinh học, vật lý, hoá học... thí nghiệm có vai trò ở chỗ, nhờ
nó chủ thể khám phá được những thuộc tính bên trong của sự vật, hiện
tượng mà trong điều kiện tự nhiên không thể khám phá được. Thí nghiệm
không chỉ nhằm thu thập các giữ kiện khoa học mà còn nhằm bác bỏ hoặc
kiểm chứng một kết luận khoa học nào đó. Thí nghiệm bao giờ cũng được tổ
chức thực hiện dưới sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học và trên một lý
thuyết khoa học nhất định. Ngày nay thí nghiệm đã được sử dụng rộng rãi
trong khoa học tự nhiên, kỹ thuật và trong khoa học xã hội.
b. Các phương pháp xây dựng và phát triển các lý thuyết khoa học
Có
nhiều phương pháp xây dựng và phát triển các lý thuyết khoa học khác
nhau. Dưới đây chỉ trình bày một số phương pháp phổ biến mà triết học
nghiên cứu.
- Phân tích và tổng hợp.
Phân tích
là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để nhận thức
các bộ phận đó. Thí dụ, khi nghiên cứu một cơ thể sinh vật, chủ thể
phân chia thành các tế bào; dùng các phương tiện để tìm hiểu kết cấu
từng tế bào. Nhờ có phân tích con người nắm bắt được các thuộc tính, các
mối quan hệ bên trong của các sự vật, hiện tượng.
Tổng hợp
là phương pháp liên kết, thống nhất các kết quả của phân tích nhằm nhận
thức cái toàn bộ. Nhờ có tổng hợp con người nắm bắt, hiểu được sự vật
dưới dạng chỉnh thể của nó. Từ đó mới có điều kiện khái quát tìm ra sự
vận động nội tại bên trong của sự vật.
Phân
tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau song lại thống
nhất biện chứng với nhau. Không phân tích thì không hiểu được các bộ
phận, ngược lại, không tổng hợp thì không thể hiểu được sự tác động
[liên hệ] giữa các bộ phận và không thể hiểu được vai trò của từng bộ
phận đối với cả chỉnh thể. Phân tích chuẩn bị điều kiện cho tổng hợp,
tổng hợp giúp cho phân tích đi sâu hơn vào bản chất của sự vật. Phân
tích và tổng hợp giả định lẫn nhau, tạo tiền đề và khả năng cho nhau.
Nhờ đó con người mới nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật.
Do
vậy, trong nhận thức con người phải gắn kết chặt chẽ hai phương pháp,
không nên cường điệu phương pháp này, coi nhẹ phương pháp kia.
- Quy nạp và diễn dịch.
Quy nạp là phương pháp đi từ tri thức về cái riêng đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn.
Điều
kiện khách quan của quy nạp là tính lặp lại của một loại thuộc tính nào
đó. Quy nạp giúp cho việc khái quát kinh nghiệm thực tiễn, nó có vai
trò quan trọng ở chỗ nhờ nó, con người khám phá ra quy luật, đề ra các
giả thuyết. Tuy nhiên quy nạp có hạn chế là quy nạp tuy rút ra thuộc
tính chung nhưng chưa thể xác định được thuộc tính ấy là tất nhiên hay
ngẫu nhiên, là bản chất hay không bản chất. Để khắc phục phải bổ sung
bằng diễn dịch.
Diễn dịch là phương pháp đi từ tri thức về cái chung đến tri thức về cái riêng, từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn.
Diễn
dịch là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, rút ra
kết luận từ nguyên lý chung đã biết. Nếu như quy nạp là phương pháp
dùng để khái quát các tài liệu kinh nghiệm thì diễn dịch là phương pháp
xây dựng lý thuyết mở rộng. Do vậy diễn dịch có vai trò quan trọng đối
với khoa học lý thuyết; dựa trên cơ sở diễn dịch người ta xác định được
những mối quan hệ trong thuộc tính tất nhiên, bản chất của các sự vật,
hiện tượng. Ngày nay dựa vào diễn dịch các nhà khoa học đi xây dựng các
phương pháp như tiên đề, giả thuyết - diễn dịch.
Diễn
dịch và quy nạp tuy có chiều hướng đối lập nhau, nhưng có quan hệ hữu
cơ, làm tiền đề cho nhau bổ sung cho nhau. Nhờ khái quát các tài liệu
kinh nghiệm đã tích luỹ được, quy nạp chuẩn bị căn cứ để dự kiến về
nguyên nhân các hiện tượng nghiên cứu, về sự tồn tại mối liên hệ tất
yếu. Còn diễn dịch thì luận chứng về mặt lý thuyết cho những kết luận
thu được bằng quy nạp, loại trừ tính không chắc chắn của các kết luận ấy
và biến chúng thành tri thức tin cậy.
Quy
nạp giúp ta hiểu được cái chung còn diễn dịch giúp ta đi từ cái chung
để hiểu cái riêng. Vì vậy, trong nhận thức và nghiên cứu khoa học phải
vận dụng tổng hợp cả quy nạp và diễn dịch.
- Lịch sử và lôgíc.
Lịch sử
là phương pháp phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử- cụ thể của sự
vật với những chi tiết của nó trong sự vận động phát triển vốn có. Chẳng
hạn việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản bằng phương pháp lịch sử đòi hỏi
phải bắt đầu mô tả quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản
trong các nước riêng lẻ ở châu Âu, châu Mỹ với vô số các chi tiết và các
hình thức cụ thể bao gồm cái phổ biến, tất nhiên, đặc thù, đơn nhất,
ngẫu nhiên.
Phương
pháp lịch sử có giá trị to lớn và quan trọng nhờ nó con người có thể
nắm bắt tương đối trọn vẹn quá trình đã diễn ra sự vật. Do đó nếu không
có phương pháp lịch sử thì không có khoa học lịch sử. Tuy nhiên phương
pháp lịch sử có hạn chế ở chỗ, phương pháp này chưa chỉ rõ mối liên hệ
bản chất, tất yếu xuyên suốt bên trong một sự vật hay nhiều sự vật.
Lôgíc là phương pháp vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát.
So
với phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc có nhiệm vụ dựng lại cái
lôgíc khách quan trong sự phát triển của sự vật nên có ưu thế ở chỗ nó
không những phản ánh được bản chất, tất yếu, quy luật phát triển của sự
vật mà nó còn phản ánh được lịch sử phát triển của sự vật ấy [một cách
tóm tắt, khái quát, trên những giai đoạn chủ yếu]. Phương pháp lôgíc có
khả năng kết hợp trong bản thân mình hai yếu tố của sự nghiên cứu:
Nghiên cứu kết cấu của sự vật cùng với hiểu biết lịch sử của sự vật
trong sự thống nhất chặt chẽ của chúng.
Phương
pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai phương pháp nghiên cứu khác
nhau, nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì muốn hiểu biết bản chất
và quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của
nó. Mặt khác có nắm được bản chất và quy luật của sự vật mới nhận thức
thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp lịch
sử cũng phải nắm lấy cái lôgíc, phải rút ra sợi dây lôgíc chủ yếu của
lịch sử thông qua việc phân tích các sự kiện và hiện tượng cụ thể. Còn
phương pháp lôgíc phải dựa trên các tài liệu lịch sử để khái quát và
chứng minh và rốt cuộc phải đem lại lịch sử trong tính bản chất của nó.
Lịch sử mà thiếu lôgíc sẽ mù quáng, còn lôgíc mà thiếu lịch sử thì không
có đối tượng, dễ rơi vào chủ quan, tư biện.
- Từ trừu tượng đến cụ thể.
Các
sự vật, hiện tượng của thế giới bao giờ cũng tồn tại dưới dạng cái cụ
thể. Cái cụ thể này được phản ánh vào nhận thức dưới hai hình thức: cái
cụ thể cảm tính và cái cụ thể trong tư duy. Cái cụ thể cảm tính là điều bắt đầu của nhận thức; cái cụ thể trong tư duy là kết quả của tư duy lý luận, nó phản ánh cái cụ thể khách quan bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Cái trừu tượng
là kết quả sự trừu tượng hoá một mặt, một mối liên hệ nào đó trong tổng
thể phong phú của sự vật. Vì vậy, cái trừu tượng là một bộ phận nào đó
của cái cụ thể, biểu hiện một mặt nào đó của cái cụ thể, là bậc thang
của sự xem xét cái cụ thể. Từ nhiều cái trừu tượng tư duy tổng hợp lại
thành cái cụ thể trong tư duy.
Nhận
thức là sự thống nhất của hai quá trình đối lập, từ cụ thể đến trừu
tượng và tư duy trừu tượng đến cụ thể. Theo tiến trình thứ nhất, nhận
thức xuất phát từ những tài liệu cảm tính, qua phân tích rút ra những
khái niệm phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật. Trong tiến
trình này toàn bộ biểu tượng đã biến thành một sự quy định trừu tượng.
Quá trình từ cụ thể đến trừu tượng tạo tiền đề cho quá trình thứ hai -
quá trình từ trừu tượng đến cụ thể.
Trong
quá trình thứ hai, nhận thức phải từ những định nghĩa trừu tượng đi đến
cái cụ thể với tính cách là kết quả của tư duy chứ không phải là cái cụ
thể là điểm xuất phát. Trong quá trình này, những sự quy định trừu
tượng lại dẫn tới sự mô tả lại cái cụ thể là bằng con đường của tư duy.
C. Mác coi đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa học
quan trọng. Nói cách khác, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể là
phương pháp nhờ đó mà tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái tạo nó
với tư cách là một cái cụ thể trong tư duy.
Trước
Mác, Hêghen là người đã đề cập đến phương pháp này nhưng mang tính chất
duy tâm. Ở Hêghen quá trình trừu tượng đi từ cái cụ thể cũng chính là quá trình sản sinh ra bản thân cái cụ thể hiện thực.
Phương
pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể đã được C. Mác xây dựng trên quan điểm
duy vật. Theo phương pháp này, việc nghiên cứu phải bắt đầu từ cái trừu
tượng, từ khái niệm. Tuy nhiên không phải lấy bất cứ cái trừu tượng nào
làm khâu xuất phát mà cái trừu tượng xuất phát phải là cái phản ánh
những mối liên hệ phổ biến nhất, đơn giản nhất, nhưng đóng vai trò quyết
định cái cụ thể cần nghiên cứu. Từ cái xuất phát đó, tư duy theo dõi
những vòng khâu, những trạng thái quá độ trong sự phát triển của sự vật
được thể hiện bằng các khái niệm ngày càng cụ thể hơn. Bằng cách đó, tư
duy tái hiện quá trình hình thành và phát triển của khách thể nghiên cứu
với toàn bộ các mặt và các quan hệ tất yếu, bản chất, những quy luật
vận động, phát triển của nó. Vì vậy, phương pháp này có vai trò đặc biệt
trong việc xây dựng lý thuyết khoa học, nó cho phép thâm nhập vào đối
tượng nghiên cứu, hình dung được tất cả các mặt và quan hệ tất yếu của
đối tượng trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của chúng.
Trong
bộ Tư bản, C. Mác đã vận dụng phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể
để nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bắt đầu từ sự phân
tích phạm trù “ hàng hoá”, đây là cái trừu tượng xuất phát là cái “tế
bào kinh tế” của xã hội tư bản, Mác tiến đến phân tích các khái niệm cụ
thể hơn như tiền tệ, tư bản, giá trị thặng dư, lợi nhận, lợi tức, địa tô
v.v. Nhờ đó Các Mác đã tái hiện xã hội tư bản như là một chỉnh thể cụ
thể trong sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trên cơ sở vạch ra
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1.
Trình bày các quan điểm triết học khác nhau về nhận thức và phân tích
để thấy sự khác nhau giữa quan điểm triết học Mác- Lênin với các quan
điểm triết học khác về bản chất của nhận thức.
2. Thực tiễn là gì? phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
3. Phân tích các cấp độ của nhận thức.
4. Chân lý là gì? Chân lý có tính chất cơ bản nào?
|