Làm rõ ý nghĩa của khoa học luật so sánh năm 2024

1. Luật so sánh hay Luật học so sánh là một môn khoa học, một phương pháp tiếp cận nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt, giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật. Luật học so sánh còn là lý luận, nghiên cứu và so sánh các văn bản pháp luật và hệ thống pháp luật khác nhau với nhau và với các quy phạm của luật quốc tế để làm sáng rõ sự giống nhau và khác nhau, xác định khuynh hướng phát triển chung của pháp luật.

2. Luật so sánh bao gồm:

Luật so sánh bao gồm:

  • So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt;
  • Sử dụng những sự tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra những vấn đề cốt lõi, cơ bản của các hệ thống pháp luật
  • Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu luật nước ngoài

Luật so sánh chỉ nghiên cứu những vấn đề chung có ảnh hưởng tới toàn thể hoặc gần như toàn thể hệ thống pháp luật giống như lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật ; và thuật ngữ luật so sánh có thể gây ra sự hiểu lầm về một ngành luật mới, nhưng thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ lâu.

3. Chức năng của luật so sánh:

Chức năng đầu tiên của luật so sánh là hỗ trợ cho các cơ quan lập pháp xây dựng pháp luật. Luật so sánh tìm ra những vấn đề cụ thể, căn nguyên nào cần thống nhất, những đặc điểm chung, sự giống nhau và sự khác nhau của các hệ thống pháp luật của các nước.

Luật so sánh có tác dụng trong việc xây dựng nhiều điều ước quốc tế thống nhất một số lĩnh vực pháp luật từ trước đến nay.

Luật so sánh còn góp phần quan trọng vào việc cải cách pháp luật quốc gia. Nó cung cấp cho các nhà làm luật, các nhà lý luận, các thẩm phán và những người hoạt động thực tiễn pháp lý khác những giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội. Các giải pháp này đôi khi hữu ích hơn những tư tưởng đang bị vây hãm chặt bởi hệthống pháp luật quốc gia đang cần cải cách.

Luật so sánh còn giúp cho những người tham gia các giao dịch quốc tế tránh khỏi những sai lầm và biết được thực chất các công việc của mình.

4. Các quan niệm về luật so sánh:

Một số quan điểm dựa vào những yếu tố căn bản ảnh hưởng tới pháp luật như: tôn giáo, luân lý và công lý, có quan niệm phân loại các hệ thống pháp luật trên thế giới thành ba loại:

  • Hệ thống Pháp luật Hồi giáo và Ấn Độ [bị ảnh hưởng của tôn giáo]
  • Hệ thống Pháp luật Trung Hoa [bị ảnh hưởng của luân lý]
  • và Hệ thống Pháp luật Pháp-La tinh, Hệ thống Pháp luật Anh–Mỹ, cũng như Hệ thống Pháp luật Xã hội Chủ nghĩa [bị ảnh hưởng của công lý].

\>>> Các quan niệm hiện nay: Quan điểm xã hội chủ nghĩa; Quan điểm của Lévy-Ullmann; Quan điểm của David René.

5. Lịch sử hình thành:

* Trước năm 1869 [trước thế kỷ 19] – Luật so sánh xuất hiện từ rất sớm [từ những năm trước công nguyên]. Cụ thể : + Người ta nghiên cứu hiến pháp các quốc gia khác nhau để lọc ra những thông tin phù hợp nhằm xây dựng hiến pháp cho quốc gia của mình. Nhà khoa học Aristore nghiên cứu 153 bản hiến pháp của Hi lạp và các quốc gia khác [384 – 322 TCN]. + Nghiên cứu hiến pháp để soạn thảo luật của nhà nước Athen. + quá trình soạn thảo 12 bản của la mã. – Thời kì đế chế La Mã + Thời kì đế chế La Mã bành trướng lãnh thổ: thì luật La Mã chiếm ưu thế và chi phối dẫn đến quá trình xây dựng pháp luật của các quốc gia lấy luật La Mã làm tiền đề. Do đó, quá trình so sánh luật bị chững lại. + Thời kì đế chế La Mã sụp đổ: Vị trí độc tôn của luật La Mã không còn do nghi thức tôn giáo hay luật của giáo hội đã hình thành dẫn đến hoạt động so sánh luật được khôi phục giữa luật La Mã và luật giáo hội. * Đến thế kỷ 17 -18:

Luật so sánh được quan tâm nhiều hơn. Trong thời kì này người ta tiến hành so sánh luật quốc gia, luật nước ngoài và luật quốc tế. + Ở Anh: Người ta tiến hành so sánh luật giáo hội và luật Commonlaw [thông luật, luật chung]. + Ở Pháp: So sánh luật tập quán của pháp với luật của Dức. Đặc biệt, là cuốn sách ” Tinh thần pháp luật” của Monteckiơ dẫn đến là kết quả của quá trình so sánh đưa ra mô hình xây dựng chính phủ tốt nhất * Sau 1869 [sau thế kỷ 19] – Đây là năm xuất hiện lý luận đầu tiên của luật so sánh mang tên “tạp chí luật so sánh” được xuất bản ở Pháp => đánh dấu bước phát triển về chất của luật so sánh vì hành động so sánh trước đây tiến hành theo nhu cầu của cuộc sống nhưng bây giờ hoạt động Luật so sánh tiến hành một cách bài bản hơn trên cơ sở lý luận hẳn hoi. – Đây là năm đầu tiên môn luật so sánh được chính thức đưa vào chương trình giảng dạy và đào tạo luật. Tuy nhiên, trong thời kì này hoạt động so sánh luật chỉ tập trung vào luật tư, luật cổ, và văn bản pháp luật [vì thực hiện trên văn bản] dẫn đến nên thiếu tính thực tiễn , góc nhìn thực tế. * Đến thế kỷ 20: Hệ thống Luật so sánh đạt được mục đích + Hài hòa pháp luật hệ thống pháp luật xích lại [tương đồng]. + Pháp điển hóa pháp luật: Thống nhất hóa pháp luật. \>>> Lịch sử hình thành hoạt động so sánh luật ở các quốc gia XHCN *Trước năm1950: Hầu như không có hoạt động so sánh luật * Sau năm 1950: Hệ thống quốc gia XHCN hình thành thì hoạt động phát triển nhưng chủ yếu ở Liên Xô. Nhưng cũng gặp nhiều hạn chế, vì: + Hoạt động Luật so sánh chỉ tiến hành trong khuôn khổ các nước XHCN. + Các nhà luật học bây giờ không sẵn sàng tiếp nhận luật pháp bên ngoài [hay ngoại lai]. + Do các thế bao vây của các thế lực thù địch => không dễ dành tiếp cận pháp luật nước ngoài. Lịch sử hình thành Luật so sánh ở Việt Nam *Trước năm 1975: Hoạt động so sánh luật cực kì phát triển nhưng ở miền nam Việt Nam. Đặc biệt là sự ra đời của cuốn sách “Một số ứng dụng của Luật so sánh”, được xuất bản năm 1965, nói về chức năng, ứng dụng của Luật so sánh [tác giả: Ts Ngô Bá Thanh]. * Từ năm 1986 trở đi: Hoạt động so sánh luật phát triển vì: + Khoa học pháp lý đã có vị trí tương xứng trong nền khoa học nước nhà + Pháp luật thực định đã tương đối hoàn chỉnh + Quan hệ đối ngoại cởi mở + Quá trình hội nhập trao đổi thông tin dẫn đến các quốc gia xích lại gần nhau => Nhu cầu tự thân nghiên cứu luật xuất hiện [nhu cầu tự thân của xã hội] => tiến tới một nguyên tắc chung là thống nhất pháp luật [pháp điển hóa pháp luật]. 6. Đối tượng nghiên cứu: – Pháp luật nước ngoài – Pháp luật quốc gia – Pháp luật quốc tế – Cơ chế áp dụng pháp luật – Cơ quan bảo vệ pháp luật [cơ quan tư pháp] – Nghề luật.

7. Phương pháp so sánh: * Phương pháp mô tả và quan sát trực tiếp. Có những nhất định xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phương pháp so sánh. Đặc trưng, tính chân thật => phải tiến hành quan sát nhiều lần ở nhiều góc độ, mức độ khác nhau. * Phương pháp so sánh trên cơ sở phân tích, đánh giá các yếu tố tác động đến việc hình thành các quy phạm pháp luật. +Chúng ta dựa vào điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên và các điều kiện xã hội để lý giải. Điều kiện kinh tế: Một trong những điều kiện ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành, phát triển của các quy phạm pháp luật. Các nước có hệ thống kinh tế khác nhau thì có các quy định khác nhau trong các lĩnh vực kinh tế nhưng nếu các quốc gia có hệ thống kinh tế giông nhau nhưng trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì hệ thông pháp luật có sự khác biệt. * Điều kiện tự nhiên: Ví dụ: pháp luật Việt Nam hiện tại và trước đây có sung quy định là miễn giảm thuế cho những vùng thiên tai, dịch họa => do tác động của điều kiện tự nhiên. + Điều kiện xã hội: Bối cảnh đặc trưng xã hội giống nhau thì hệ thông pháp luật cũng có nét tương đồng. Ví dụ: Hiến pháp 1946 có những nét riêng biệt do bối cảnh xã hội lúc đó [mới dành được đc lập]. + Yếu tố lịch sử: Lịch sử phát triển của đất nước có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành của hệ thống pháp luật. Đây là yếu tố quan trọng để quá trình hình thành những nét tương đồng và khác biệt. + Mối quan hệ thuộc về lịch sử + Yếu tố địa lý: như đất đai, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên…đều có ảnh hưởng đáng kể đế hệ thống pháp luật nước đó.

Chủ Đề