Danh sách tác phẩm đoạt giải Nobel văn học

GD&TĐ - Nobel Văn học là giải thưởng cao quý đối với người theo nghiệp văn chương. Các tác phẩm đoạt giải thưởng này luôn là những cuốn sách đáng đọc ít nhất một lần trong đời.

Hãy cùng điểm qua những tác phẩm đoạt giải Nobel Văn học “chứa đựng” tính nhân văn sâu sắc.

1. Thiên đường Tiểu thuyết gia người


Thiên đường.

Tanzania Abdulrazak Gurnah [72 tuổi], đã trở thành nhà văn da màu thứ hai ở châu Phi đoạt giải Nobel Văn học năm 2021. Những tác phẩm của ông thể hiện sự thâm nhập kiên định và nhân ái đối với tác động của chủ nghĩa thực dân và số phận những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa.

Cuốn tiểu thuyết thứ 4 “Thiên đường” [năm 1994] của Abdulrazak Gurnah được coi là bước đột phá trong sự nghiệp văn chương. Tiểu thuyết phát triển từ một chuyến đi nghiên cứu đến Đông Phi vào khoảng năm 1990. Đây là câu chuyện về quá trình trưởng thành và một chuyện tình buồn trong thế giới khác biệt và va chạm những hệ thống niềm tin khác nhau.

Đây cũng được xem là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông Abdulrazak Gurnah được lọt vào danh sách rút gọn của giải Booker và giải thưởng văn học Whitbread, được trao hằng năm cho những nhà văn sống ở Anh và Ireland.

Người phát ngôn của Ủy ban trao giải Nobel Văn học đã nhận xét về ý nghĩa to lớn trong các tác phẩm của Gurnah: “Xuyên suốt trong các tác phẩm của ông là sự thâm nhập không nhân nhượng và đầy lòng trắc ẩn đối với những tác động của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa”.

Ông Anders Olsson - Chủ tịch Ủy ban Nobel thuộc Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá, các tiểu thuyết của Gurnah khiến người đọc biết nhiều hơn đến một nền văn hóa Đông Phi vốn còn xa lạ với thế giới.

2. Dịch hạch


Dịch hạch.

“Dịch hạch” là tên một tiểu thuyết của nhà văn, triết gia người Pháp Albert Camus. Tác phẩm ra đời năm 1947. Năm 1957, Albert Camus được trao giải thưởng Nobel Văn học vì các sáng tác của ông đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta.

Tiểu thuyết “Dịch hạch” ra đời ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ 2. Những gì tác phẩm miêu tả khiến người đọc liên tưởng tới một đại dịch khủng khiếp mà nhân loại vừa thoát khỏi trước đó 2 năm: Chủ nghĩa phát xít. Albert Camus được cho là một nhà dự báo thiên tài. Bởi, bối cảnh tác phẩm “Dịch hạch” ra đời 73 năm qua đang diễn ra trong đời sống nhân loại ngày nay, khi toàn thế giới đang phải đối mặt với đại dịch Covid-19.

Câu chuyện trong “Dịch hạch” xảy ra ở Oran - một thành phố bên bờ Địa Trung Hải ở Algerie khi còn thuộc Pháp. Oran là một thành phố yên tĩnh bỗng một ngày xuất hiện và xảy ra những sự kiện “không đúng chỗ, có phần không bình thường”. Đầu tiên là những con chuột chết lẻ tẻ nơi cầu thang, rồi người ta bắt gặp xác chuột chết ở ngoài đường không đúng chỗ…

Dịch hạch xuất hiện. Các bệnh nhân bắt đầu được đưa vào bệnh viện và đã có những người tử vong đầu tiên. Vài ngày sau những hiện tượng bất bình thường này, dịch bệnh bùng phát. Sau nhiều cuộc tranh cãi, chính quyền phải công nhận đó là đại dịch.

Thành phố bị đóng cửa, mọi liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Bắt đầu từ đây, một cuộc chiến cam go giữa con người với dịch bệnh đã diễn ra âm thầm, quyết liệt bên trong thành phố bị phong tỏa đó.

Trong bối cảnh cả thành phố bị cách ly, cuộc sống của con người vẫn phải tiếp diễn. Những công dân của thành phố mỗi người mang một tâm trạng khác nhau. Người sống trong sợ hãi, người tuyệt vọng tìm những thú vui để quên đi sự lo âu. Trong khi đó, một số kẻ cơ hội tìm cách kiếm lợi từ đại dịch.

Bác sĩ Rieux - người đầu tiên nhìn thấy những xác chuột chết vào buổi sáng 16/4 năm ấy đã cùng những con người can đảm, với các phương tiện ít ỏi cố gắng nỗ lực cứu người, đẩy lùi đại dịch. Bác sĩ Rieux có suy nghĩ đơn giản, rõ ràng nhưng quyết liệt: “Nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng hèn nhát mới cam chịu buông tay trước dịch hạch”, “sức lực tôi đến đâu thì tôi bảo vệ họ đến đó...”.

Những lời nói và hành động của Rieux đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có linh mục Paneloux, Jean Tarrou - một trí thức xuất thân danh giá. Jean Tarrou là người đáng lẽ đứng ngoài cuộc, nhưng anh đã tình nguyện cùng Rieux chống lại bệnh dịch.

Khi viết “Dịch hạch”, Albert Camus hiểu rằng, mọi người đều mang bệnh dịch trong mình. Bởi, không ai trên thế giới thoát khỏi nó… Bệnh dịch có mầm mống tự nhiên. Khi kết thúc tác phẩm “Dịch hạch”, Albert Camus đã nhận ra rằng: “Bài học rút ra được giữa lúc gặp tai họa là trong con người, có nhiều điều đáng khâm phục hơn là cái đáng khinh ghét… Dịch bệnh được đẩy lùi thì mầm bệnh vẫn lẩn khuất đâu đó và chỉ chờ dịp để bùng phát lại. Do đó, con người vừa luôn phải cảnh giác, vừa luôn phải đoàn kết giữ vững niềm tin. Chỉ có như vậy, con người mới có thể chiến thắng đại dịch”.

3. Của chuột và người


Của chuột và người.

Xuất bản năm 1937, giữa thời kỳ Đại suy thoái của nước Mỹ, “Của chuột và người” là một trong những tác phẩm xuất sắc giúp John Steinbeck đoạt giải Nobel Văn học năm 1962. Cuốn sách là sự suy ngẫm về số phận nghiệt ngã của những người lao động nghèo dưới đáy xã hội trong cơn khủng hoảng kinh tế. Họ là những con người nay đây mai đó, bấu víu vào hy vọng nhỏ nhoi để tiếp tục sống, tìm lối thoát giữa nỗi tuyệt vọng của thời cuộc.

“Của chuột và người” là một câu chuyện kể về George Milton và Lennie Small - hai chàng trai làm công cho một nông trại. Tuy cuộc sống vất vả và công việc nặng nhọc, nhưng họ luôn cố gắng đạt được ước mơ sở hữu một nông trại của riêng mình.

Bên bờ sông Salinas trong trẻo, tươi vui, George vẽ ra trước mắt Lennie viễn cảnh tương lai tràn ngập hạnh phúc, khi họ có thể sở hữu một căn nhà nhỏ của riêng mình, khu vườn đầy ắp hoa trái. Họ hình dung ra những loài thú nuôi đáng yêu cùng đồng hành trong ngày tháng tự do không phải chịu áp bức từ những chủ nô.

George tuy nhỏ bé nhưng thông minh và có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, luôn hành động dứt khoát theo lý trí. Lennie to khỏe, nhưng đầu óc chậm phát triển, lúc nào cũng như một đứa nhóc to xác biết vâng lời và ngoan ngoãn.

“Của chuột và người” khắc họa bức tranh xã hội Mỹ đương thời - nơi con người phải vật lộn để kiếm sống trong cuộc đại khủng hoảng. Đặc biệt, những người lao động chân tay nghèo khổ thường không có gia đình lẫn của cải. Họ phải liều mạng để làm việc, nhưng vẫn chỉ đủ ăn.

Họ mất đi sự tự do. Tiếng nói cá nhân cũng theo đó bị vùi lấp bởi sự sợ hãi và nỗi lo về cơm áo gạo tiền. Tác phẩm kết thúc với một bi kịch đầy bất ngờ và trần trụi, cũng diễn ra cạnh bờ sông Salinas. Đây là sự tượng trưng cho vòng lặp khổ đau mà những người dân nghèo chẳng tài nào thoát ra được.

4. Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ


Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ.

Với “Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ”, tác giả Svetlana Alexievich là nhà văn đầu tiên của Belarus được trao giải Nobel Văn học [năm 2015]. Xuất sắc vượt qua nhiều ứng cử viên nặng kí, Alexievich trở thành chủ nhân giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử “vì lối viết phức điệu, một tượng đài tưởng niệm sự thống khổ và lòng can đảm trong thời đại của chúng ta” [theo trích dẫn của giải thưởng].

“Bằng phương pháp độc đáo - ghi nhận tiếng nói của nhiều người và đưa vào tác phẩm của mình, nữ tác giả Alexievich giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về cả một kỷ nguyên”, Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đánh giá.

Nhà văn - nhà báo Alexievich tự sự rằng, bà đã chọn những thể loại phù hợp để theo đuổi con đường văn chương. Thông thường, bà cần khoảng 3 - 4 năm để hoàn thành một cuốn sách. Tuy nhiên, bà đã dành tâm huyết cho “Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ” trong gần 10 năm. Để viết cuốn sách này, bà phải gặp gỡ, phỏng vấn, lấy tư liệu thật, ghi âm giọng nói của nhiều người khác nhau.

Đời sống và thân phận của phụ nữ Nga trong chiến tranh đã hiện lên trong những cuốn sách của Alexievich, đầy đau khổ và anh hùng. “Thật khó khăn để tiếp tục làm một người phụ nữ trong chiến tranh. Tuy nhiên, cuốn sách của tôi phải là tiếng nói cất lên từ những người dân. Đó là một cách để thế giới biết sự thật”, bà Alexievich bày tỏ.

Cuộc chiến tranh được ghi nhận trong con mắt một nửa của thế giới là đàn ông chủ yếu bằng những con số, dữ liệu, sự kiện. Trong khi đó, với nữ giới, dường như, họ nhìn chiến tranh qua cảm xúc.

Cùng ELLE điểm danh 10 tác phẩm văn học tiêu biểu có thể đánh thức nhiều chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời trong lòng độc giả giữa những ngày cách ly hiện tại nhé.

1. Dịch hạch – Albert Camus

Dịch hạch là cuốn tiểu thuyết mang màu sắc ký sự của nhà văn Pháp nổi tiếng Albert Camus, ra đời vào năm 1947. Câu chuyện xoay quanh hành trình chiến đấu chống lại căn bệnh dịch hạch tại thành phố Oran của Pháp, nằm ở phía Bắc Algérie. Mặc dù được sáng tác khá lâu nhưng tính thời sự cũng như mức độ chân thực của tác phẩm văn học này khi miêu tả cách thức loài người chống lại đại dịch vẫn vẹn nguyên giá trị ở hiện tại.

Vì Dịch hạch ra đời ngay sau Thế chiến II nên thảm họa miêu tả trong đó có thể khiến người ta liên tưởng đến chủ nghĩa phát xít. Nhưng cũng có thể, tiểu thuyết này ám chỉ bất cứ hình thức bạo lực nào đe dọa cuộc sống loài người ở hiện tại và tương lai.

2. Đẹp và buồn – Kawabata Yasunari

Theo thời gian, những tác phẩm văn học của Kawabata Yasunari vẫn luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với đông đảo độc giả trên toàn thế giới, phản ảnh nhiều phương diện văn hóa của xứ sở Mặt Trời mọc cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản.

Lấy bối cảnh chính là cố đô Kyoto, Đẹp và buồn là câu chuyện tình tay ba đầy bi kịch của nhà văn Oki với tình nhân Otoko và người vợ Fumiko của ông. Oki say mê vẻ đẹp thanh khiết của thiếu nữ Otoko khi ấy mới 17 tuổi, để rồi khi cô có thai, ông lại không dám chia tay vợ mình để đến với cô, khiến Otoko sinh non đứa bé. Sau này, Oki viết tác phẩm Thiếu nữ mười sáu như một lời gợi nhắc về mối tình vấn vương giữa ông và cô thiếu nữ năm nào nhưng rồi chính nó lại là tác nhân khiến vợ ông sảy thai. Đam mê và nhục cảm hòa quyện cùng vẻ đẹp tình yêu đồng thời cũng là nét đẹp điên rồ của lòng hận thù, tạo thành một cuộc truy lùng, đeo đuổi mãi không dứt.

3. Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối – Patrick Modiano

Với độ dày chưa đầy 200 trang, cuốn tiểu thuyết này là sự tổng hòa lời kể của 4 nhân vật về những mẩu ký ức tuổi trẻ, tại không gian quán cà phê Le Condé. Từ những gì mà các nhân vật kể lại, cuộc đời của họ cũng dần được hé mở và quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối trở thành một nơi chốn trú ngụ giúp họ thoát khỏi cuộc đời u ám. Những hồi ức tuổi trẻ cũng là cách để tác giả đưa các nhân vật trở về với quá khứ của họ, bóc tách từng mảng nội tâm và tìm cách giải mã bí ẩn bên trong tâm hồn nhân vật. Việc nhân vật đi tìm “cội nguồn” của mình trở thành nét chủ đạo trong các tác phẩm văn học của Modiano, đồng thời được nâng tầm lên thành một vấn đề bao quát: con người với thời gian.

4. Của chuột và người – John Steinbeck

Với Của chuột và người, John Steinbeck đã đóng góp cho nền văn chương thế giới một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất về tầng lớp lao động. Lấy bối cảnh nước Mỹ trong giai đoạn Đại Khủng hoảng kinh tế những năm 1930, Của chuột và người là câu chuyện bi thương của George và Lennie – 2 gã đàn ông lang thang tìm việc làm tại các nông trại ở California. Thông qua số phận của họ, John Steinbeck đã khắc họa một cách đau đớn nỗi khốn cùng của người dân lao động Mỹ, những mảnh đời cơ cực giữa một xã hội đầy rẫy bất công. Khát khao làm chủ của George và Lennie tương phản một cách phũ phàng với thực tế diễn ra tại nơi họ làm việc. Còn ước mơ và hoài bão của những người như họ thì mãi mãi chỉ là ảo vọng xa vời.

5. Buồn nôn – Jean-Paul Sartre

Buồn nôn là cuốn tiểu thuyết mang màu sắc hiện sinh của nhà triết học Jean-Paul Sartre. Tác phẩm xoay quanh nhân vật Antoine Roquentin, một nhà sử học đang chán nản cuộc sống hiện tại. Anh cư ngụ tại thành phố cảng hư cấu Bouville để hoàn tất công trình nghiên cứu về cuộc đời của một nhà hoạt động chính trị thế kỷ 18. Mùa đông năm 1932, một sự kiện kỳ lạ đã xảy ra với Antoine, khi những cơn buồn nôn ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong các hoạt động của anh hoặc những sự vật xung quanh anh. Antoine tin rằng các vật thể và tình huống vô tri xâm lấn vào khả năng tự xác định bản thân và sự tự do về trí tuệ, tinh thần của anh, gợi lên trong nhân vật chính một cảm giác buồn nôn.

6. Chúa ruồi – William Golding

Chúa ruồi là tuyệt phẩm văn học của William Golding, mang đến cho người đọc những phút giây rùng mình kinh hãi và đặt ra câu hỏi, liệu có phải “nhân chi sơ, tính bản thiện”?

Diễn ra trong bối cảnh một cuộc chiến tranh nguyên tử, chiếc máy bay chở mấy chục đứa trẻ đi sơ tán gặp tai nạn và rơi xuống một hoang đảo tại Thái Bình Dương. Những đứa trẻ ấy đã phải tự sinh tồn, bắt đầu một cuộc sống tự lập. Xung đột nổ ra trước những khó khăn và thiếu thốn về lương thực nơi hoang đảo cùng nỗi thất vọng khi chúng bỏ lỡ cơ hội được cứu sống. Cuối cùng, xung đột lên đến đỉnh điểm đã bộc lộ sự tàn ác trong mỗi đứa trẻ. Câu chuyện được đẩy lên cao trào bằng những hành động sai trái mất kiểm soát.

7. Siddhartha – Herman Hesse

Siddhartha là cuốn tiểu thuyết mang tính cách ngôn của nhà văn người Đức Herman Hesse, kể về hành trình tâm linh của một người Ấn Độ tên là Siddhartha. Siddhartha vốn là tên của Đức Phật trước khi xuất gia nhưng trong cuốn tiểu thuyết này, Phật Thích Ca lại được tác giả gọi là Gotama. Câu chuyện bắt đầu khi nhân vật chính bỏ nhà ra đi cùng người bạn thân là Govinda để cùng các nhà tu khổ hạnh tìm kiếm sự khai sáng. Hành trình này đã giúp Siddhartha đi qua một chuỗi các thay đổi và tự nhận thức, nêu bật tầm quan trọng của việc trải nghiệm tận cùng mọi ngõ ngách để có thể thấu hiểu bản chất cuộc sống.

8. Tên tôi là Đỏ – Orhan Pamuk

Trên nền một câu chuyện trinh thám ly kỳ, Tên tôi là Đỏ đã mở ra một cuộc khai phá triết lý sống với những chiêm nghiệm về tình yêu, nghệ thuật, sự sống và cái chết, đồng thời khám phá vẻ đẹp của nền văn hóa Ba Tư trên nền đối thoại Đông – Tây.

Tên tôi là Đỏ đưa người đọc đến với Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 16, tại kinh đô Istanbul thâm trầm, ngập tràn màu sắc văn hóa, lịch sử, tôn giáo và hội họa. Mùa Đông năm 1591, Hoàng đế nước Thổ ra lệnh cho các nhà tiểu họa thực hiện một cuốn sách ca ngợi đế quốc Thổ, minh họa theo phong cách phương Tây. Giữa bối cảnh văn hóa, lịch sử thời điểm đó, việc này là một điều cấm kỵ, ai thực hiện có thể tự chuốc lấy cái chết. Và điều đó đã thành sự thật, khi lần lượt từng thành viên trong đội ngũ minh họa cho cuốn sách qua đời một cách bí ẩn.

9. Trốn chạy – Alice Munro

Tác phẩm văn học nổi tiếng này khắc họa 8 câu chuyện của những người trốn chạy. Một thiếu phụ trốn chạy một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, một cô gái trốn chạy để đến với tình yêu, một người con bỏ lại mẹ của mình để đi tìm những điều ý nghĩa, một người mẹ bỏ rơi đứa con để chạy theo giấc mơ của riêng mình. Cùng là trốn chạy nhưng những câu chuyện ấy không hề có công thức chung. Alice Munro dùng những lời văn bình thản, đẹp đẽ nhưng bộc lộ sự thấu hiểu tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc để kể nên những câu chuyện tưởng chừng rất đỗi bình thường. Để rồi chỉ cần một khoảnh khắc bất chợt sáng tỏ, một sự tiết lộ có khả năng thay đổi mọi thứ, bỗng chốc nhân vật và cả người đọc sẽ thấy nhói đau.

10. Mãi đừng xa tôi – Kazuo Ishiguro

Với bối cảnh một thế giới giả tưởng phản địa đàng nhưng vẫn mang tính thực tế, Mãi đừng xa tôi đưa ra một sự tranh luận đầy ám ảnh về số phận và giá trị thực sự của con người.

Kathy, Ruth và Tommy là 3 trong số những đứa trẻ đã lớn lên dưới mái trường nội trú Hailsham. Số phận đã được định đoạt ngay từ đầu, khi họ là những đứa trẻ nhân bản vô tính chỉ với mục đích hiến tạng. Họ thấu hiểu số phận của bản thân nhưng lại không biết làm gì để đấu tranh giành quyền được sống. Tuy vậy, họ vẫn muốn trì hoãn đoạn kết đến chừng nào có thể. Giọng điệu bình thản khắc họa một hiện thực đáng sợ và đầy ám ảnh cùng nỗi đau đớn đến xé lòng của những sinh mệnh không được phép lựa chọn về tình yêu và hạnh phúc.

Video liên quan

Chủ Đề