Đại học Y Hà Nội khoa bao nhiều

Mức này thấp hơn năm ngoái 0,05. Nếu đăng ký học ngành Y khoa phân hiệu Thanh Hóa, thí sinh chỉ cần đạt 27,75. Đại học Y Hà Nội còn xét tuyển ngành Y khoa bằng phương thức kết hợp điểm thi tốt nghiệp THPT và chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, điểm chuẩn 27,5.

Ngành có điểm trúng tuyển thấp nhất vẫn là Điều dưỡng ở phân hiệu Thanh Hóa - 23,2. Năm ngoái, ngành này chỉ lấy 22,4 điểm.

Đại học Y Hà Nội tuyển 1.150 sinh viên, sử dụng hai phương thức chính để xét tuyển, gồm dựa vào kết quả thi tốt nghiệp THPT áp dụng với tất cả ngành và xét kết hợp chứng chỉ tiếng Anh hoặc tiếng Pháp quốc tế đối với ngành Y khoa đào tạo tại Hà Nội. Đây là lần đầu tiên Đại học Y Hà Nội xét tuyển kết hợp.

Hiện, tính tất cả phương thức xét tuyển, có 1.266 thí sinh đã trúng tuyển, nhiều hơn 100 bạn so với chỉ tiêu. Điều này phù hợp do các trường đều tính toán có lượng nhất định thí sinh trúng tuyển nhưng không nhập học.

Năm 2020, Đại học Y Hà Nội lấy điểm chuẩn từ 22,4 đến 28,9.

Dương Tâm

Trong 2 giờ tư vấn tuyển sinh đại học [ĐH] chính quy năm 2021 trực tuyến, trường ĐH Y Hà Nội đã nhận được rất nhiều câu hỏi của thí sinh, phụ huynh liên quan đến điểm chuẩn vào trường năm nay.

PGS.TS. Lê Đình Tùng, Trưởng phòng Đào tạo, trường ĐH Y Hà Nội cho biết trường có 9 mã ngành gồm 4 ngành bác sĩ [bác sĩ Y khoa, bác sĩ Răng – Hàm – Mặt, bác sĩ Y học cổ truyền, bác sĩ Y học dự phòng], 5 ngành cử nhân. Điểm chuẩn của các ngành có sự phân hóa nhất định. Một số ngành có điểm chuẩn cao như Y khoa, Răng – Hàm – Mặt nhưng những ngành cử nhân, điểm chuẩn phù hợp với nhiều đối tượng thí sinh.

Bức tranh tuyển sinh của trường ĐH Y Hà Nội năm 2020

Năm 2021, chỉ tiêu cơ bản các ngành giữ ổn định như năm 2020. Nhưng có một số thông tin thí sinh cần lưu ý. Thứ nhất, đối với ngành Y khoa, nhà trường dành 360 chỉ tiêu để xét tuyển kết quả thi tốt nghiệp THPT theo tổ hợp truyền thống B00 [Toán, Hóa, Sinh]; 40 chỉ tiêu để xét tuyển kết hợp giữa kết quả thi tốt nghiệp THPT tổ hợp truyền thống B00 và chứng chỉ quốc tế tiếng Anh và tiếng Pháp.

Thứ hai, PGS. Lê Đình Tùng nhấn mạnh đến việc thí sinh cần ghi đúng mã ngành đào tạo khi tham gia xét tuyển để tránh những nhầm lần đáng tiếc, sau này không có cơ hội thay đổi.

Hiện nhà trường đã công nhận trúng tuyển 94 thí sinh, trong đó có 59 thí sinh trúng tuyển Y khoa tại cơ sở Hà Nội, và 11 thí sinh trúng tuyển vào phân hiệu Thanh Hóa.

Tuy nhiên, GS.TS Nguyễn Hữu Tú thông tin, năm 2020, số thí sinh trúng tuyển diện xét tuyển thẳng nhập học chỉ đạt 2/3, nên dự đoán, năm nay cũng chỉ khoảng 40 thí sinh đã trúng tuyển vào Y khoa sẽ xác nhận nhập học. 20 chỉ tiêu còn lại sẽ chuyển về phương thức xét kết quả thi tốt nghiệp THPT. Như vậy, chỉ tiêu của Y khoa năm nay còn khoảng 320 chỉ tiêu.

Vấn đề điểm chuẩn năm nay sẽ như thế nào được đông đảo thí sinh và phụ huynh đặc biệt quan tâm. GS.TS Nguyễn Hữu Tú nhấn mạnh, riêng ngành Y khoa năm nay có hai phương thức xét tuyển độc lập. Vì vậy, một thí sinh có thể đăng ký cả hai phương thức. Ở phương thức nào thí sinh thấy có lợi thế hơn thí ưu tiên nguyện vọng đăng ký để tăng cơ hội trúng tuyển.

GS. Nguyễn Hữu Tú cho hay, phổ điểm tổ hợp B00 năm nay có thấp hơn so với năm 2020 một chút. Vì vậy, dự đoán, điểm chuẩn của trường ĐH Y Hà Nội thấp hơn trong giới hạn 0,5 điểm tùy các ngành.

Nói cụ thể hơn về dự báo điểm chuẩn năm nay, PGS. Lê Đình Tùng cho hay khoảng cách điểm chuẩn giữa các ngành không khác biệt, tương đương năm 2020. Về cơ bản số lượng thí sinh đạt từ 22,5 điểm trở lên ở kỳ thi đợt 1 so với 2020 có giảm hơn một chút.

Đối với ngành Y khoa, trong đề án tuyển sinh của trường ĐH Y Hà Nội đã nêu rõ, với phương thức xét tuyển kết hợp chứng chỉ ngoại ngữ, điểm chuẩn được thấp hơn không quá 3 điểm so với phương thức xét tuyển truyền thống. Tham khảo từ những trường ĐH khác, khả năng điểm chuẩn giữa hai phương thức không có khác biệt lớn, chỉ trên dưới 1 điểm.

Chính vì vậy, PGS. Lê Đình Tùng cho rằng, những thí sinh từ 28 điểm trở lên mạnh dạn “đặt cược” cửa trên vào ngành Y khoa theo phương thức xét tuyển truyền thống nếu thực sự yêu thích, còn với những thí sinh từ 27 điểm trở lên mà có chứng chỉ ngoại ngữ theo yêu cầu thì nên nghĩ đến phương thức xét tuyển kết hợp.

Ngoài ra, trường ĐH Y Hà Nội còn đào tạo nhiều ngành khác liên quan đến khoa học sức khỏe mà điểm chuẩn các năm qua ở mức phù hợp. Vì vậy, thí sinh có thể lựa chọn theo sở thích và năng lực của mình.

Trường Đại học Y Hà Nội là một trường đại học đầu ngành chuyên ngành y khoa tại Việt Nam. Trường có sứ mạng đào tạo bác sĩ, cử nhân có trình độ đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ y dược, hỗ trợ phát triển hệ thống y tế nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân khu vực Đồng bằng sông Hồng. Được xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam, trực thuộc Bộ Y tế.

Trường Đại học Y Hà Nội

Hanoi Medical University

Hình ảnh của Trường Đại học Y Dược Hà Nội thuở mới được thành lập, năm 1930 tại 19 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm

Thời Pháp thuộcSửa đổi

Bác sĩ Alexandre Yersin là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y khoa Hà Nội [tiền thân của Đại học Y Hà Nội].

Tiền thân của trường Đại học Y Hà Nội là École de Médecine de Hanoi [ Trường Y khoa Hà Nội] do Pháp thành lập năm 1902. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là Bác sĩ Alexandre Yersin. Cùng với các trường chuyên ngành đã được thành lập cùng thời kỳ đó, như Trường Dạy nghề Hà Nội [École Professionelle de Hanoi] do Phòng Thương mại Hà Nội lập ra vào năm 1898, Trường Hậu bổ Hà Nội [École d’Aministration de Hanoi] năm 1897, Trường Công chính [École des Travaux Publics] năm 1902, đây là một trong những trường đào tạo theo lối giáo dục phương Tây đầu tiên ở Việt Nam.[2]

Năm 1906, Toàn quyền Đông Dương Paul Beau thành lập Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương trở thành một trường thành viên của Viện Đại học Đông Dương và vẫn tiếp tục đào tạo sau khi viện đại học này tạm ngừng hoạt động từ năm 1908.[2]

Năm 1913, Toàn quyền Albert Sarraut ký nghị định thành lập Trường Y Dược khoa Đông Dương trên cơ sở Trường Y khoa cũ.[2]

Cho tới năm 1914, trường đã đào tạo được 237 y sĩ, y tá và nữ hộ sinh.[2]

Việt Nam Dân chủ Cộng hòaSửa đổi

Trường Y khoa nguyên thủy đặt tại đường Lê Thánh Tông, và đằng sau trường là bệnh viện thực hành nay mang tên Bệnh viện 108. Năm 1945, Trường đổi tên thành Trường Đại học Y Dược Hà Nội.

Dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo trình đổi theo mô hình giáo dục Liên Xô. Ngoài việc đào tạo chuyên môn, trường theo đuổi học tập chính trị qua những đợt chỉnh huấn, tham gia "học tập công nông". Năm 1958, 1/6 thời giờ học trình dành cho việc học tập chính trị. Từ sáu năm học, học trình rút xuống còn bốn năm nhưng đến năm 1962 thì trở lại chương trình sáu năm vì phẩm chất kém. Tuy nhiên, 12% thời giờ vẫn là học chính trị và khi tốt nghiệp sinh viên không trình luận án mà thi hai phần: chuyên môn và chính trị để ra trường.[3]

Năm 1961, Trường Đại học Dược Hà Nội tách ra và lấy khuôn viên này, Trường Đại học Y Hà Nội chuyển đến số 1 đường Tôn Thất Tùng và ở đó cho đến nay, cạnh Bệnh viện Bạch Mai. Hiện tại, nó cũng có cơ quan nằm trong Bệnh viện Việt Đức.

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt NamSửa đổi

Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, cơ sở thực nghiệm của Trường Đại học Y Hà Nội, đã được đưa vào hoạt động năm 2007.

Viện Đái tháo đường và Rối loạn chuyển hoá, đây là viện quốc gia do Bộ Y tế thành lập theo quyết định 1368/QĐ–BYT ngày 27/4/2010. Viện có chức năng nghiên cứu khoa học, đào tạo, khám chữa bệnh, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống bệnh đái tháo đường và các bệnh rối loạn chuyển hoá.

Nhà trường đã kỷ niệm 110 năm thành lập vào năm 2012.

Ngày 15 tháng 12 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Phân hiệu Đại Học Y Hà Nội tại Thanh Hóa, có địa chỉ tại Phố Quang Trung 3 – Phường Đông Vệ – TP Thanh Hóa.

Cơ sởSửa đổi

Cơ sở Hà NộiSửa đổi

Số 1 đường Tôn Thất Tùng, quận Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Cơ sở Thanh HóaSửa đổi

Phố Quang Trung 3 – Phường Đông Vệ – TP Thanh Hóa, Tỉnh Thanh Hóa.

Bệnh viện Đại học Y Hà NộiSửa đổi

Số 1 đường Tôn Thất Tùng, quận Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Đội ngũ cán bộSửa đổi

Gồm có hơn 1000 cán bộ giảng dạy và công chức, viên chức: 711 cán bộ có trình độ trên đại học và sau đại học [trong đó có 154 Giáo sư Phó giáo sư, 80 Tiến sĩ, 237 Thạc sĩ, 25 BSCKII, 17 BSCKI, 236 cán bộ đại học, 25 cán bộ cao đẳng, 122 cán bộ trung học] và rất nhiều các bác sĩ ở bệnh viện tuyến trung ương [Bạch Mai, Nhi trung ương, Việt Đức,...] làm giảng viên kiệm nhiệm giảng dạy thực hành tại bệnh viện.

Hiệu trưởng qua các thời kỳ:[4] Hồ Đắc Di [1945–1976], Nguyễn Trinh Cơ [1976–1983], Nguyễn Năng An [1983–1985], Hoàng Đình Cầu [1985–1988], Nguyễn Thụ [1988–1993], Tôn Thất Bách [1993–2003], Nguyễn Lân Việt [2003–2007], Nguyễn Đức Hinh [2008–2018], Tạ Thành Văn, Đoàn Quốc Hưng [phụ trách] [2018 - 2021], Nguyễn Hữu Tú [từ tháng 11/2021 - nay].

Đào tạo đại họcSửa đổi

  • Bác sĩ Y khoa
  • Bác sĩ Y học Cổ truyền
  • Bác sĩ RHM
  • Bác sĩ Y học Dự phòng
  • Cử nhân Kỹ thuật Y Học [Xét Nghiệm Y Học]
  • Cử nhân Điều dưỡng [và hệ Cử nhân Điều dưỡng tiên tiến]
  • Cử nhân YTCC
  • Cử nhân dinh dưỡng
  • Cử nhân Khúc xạ nhãn khoa

Thành tích và hợp tácSửa đổi

  • Tính đến năm 2007, trường đã đào tạo trên 17.000 bác sĩ chính quy, khoảng 10 ngàn học viên sau đại học.
  • Trường phát triển những mũi nhọn của y học chuyên sâu như tim mạch, ghép tạng... một mặt phát triển những nghiên cứu của sức khoẻ cộng đồng, mở rộng hợp tác đa phương với hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới như Pháp, Mỹ, Hà Lan, Thuỵ Điển, Úc, Indonesia, Nhật Bản... để du nhập công nghệ mới.
  • Trường Đại học Y trong thời chiến đã cung cấp đầy đủ số lượng bác sĩ cho các mặt trận và các vùng tự do. Những bác sĩ tốt nghiệp trong giai đoạn này, sau này đều trở thành lực lượng nòng cốt của nền y học Việt Nam.
  • Cán bộ: Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, với làn sóng rời nước của viên chức Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, nhiều người đã vào Sài Gòn để đảm nhiệm chức vụ quản lý và giảng dạy tại trường này.

Hướng nghiên cứuSửa đổi

  • Nghiên cứu ứng dụng hoặc chuyển giao công nghệ mới, các kỹ thuật nuôi cấy, bảo quản mô phôi và tế bào, ưu tiên cho tế bào gốc để phục vụ chẩn đoán, điều trị và dự phòng.
  • Nghiên cứu ứng dụng y sinh học phân tử vào chẩn đoán và điều trị.
  • Nghiên cứu tạo ra các sản phẩm sinh học, bán tổng hợp và tổng hợp phục vụ cho chẩn đoán, điều trị và dự phòng với các bước khác nhau.
  • Nghiên cứu các giải pháp phát hiện bệnh sớm, các yếu tố nguy cơ và các biện pháp can thiệp nhằm chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
  • Thực hiện các mũi nhọn khoa học công nghệ của Nhà nước và ngành trên cơ sở phục vụ cộng đồng, xã hội nhằm nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Tập trung nghiên cứu lĩnh vực y sinh học phân tử và một số bệnh di truyền, chuyển hóa, nội tiết [đái tháo đường...] và một số bệnh khác như bệnh tim mạch, ung thư, tâm thần...

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b c d e f “Công khai cơ sở dữ liệu Đào tạo của Nhà trường năm 2016”.
  2. ^ a b c d “Đại học Đông Dương: Nền móng của giáo dục đại học hiện đại ở Việt Nam”. Tạp chí Hoạt động Khoa học. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2009.
  3. ^ "Trăm năm dạy ứng xử nghề nghiệp ở đại học Y Hà Nội"
  4. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.

Xem thêmSửa đổi

  • Danh sách trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội

Liên kết ngoàiSửa đổi

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trường Đại học Y Hà Nội.
  • Trường Đại học Y Hà Nội Lưu trữ 2008-10-28 tại Wayback Machine


Video liên quan

Chủ Đề