Có dùng chung tera egg với men tiêu hóa không

Địa chỉ: 06 Nguyễn Trung Trực, Khu Vực 5, P. Thuận An, TX. Long Mỹ , Tỉnh Hậu Giang

Hotline: 02933 871 036 DĐ : 0908 81 81 72 [ Khánh Duy ]

Email: khanhhungco.ltd.us@gmail.com

Website: www.sauemshop.com

“Lượng ăn vào không ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho trong khẩu phần ăn cho heo nái mang thai, nhưng heo nái mang thai có khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho kém hơn so với heo nái tơ đang phát triển”, điều này được công bố trên tạp chí Canadian Science of Animal Science. Các tác giả bao gồm Su Lee, Gloria Casas, và Hans Stein.

Hầu hết các tỷ lệ tiêu hóa của canxi và phốt pho được xác định ở heo choai, và kết quả đó được áp dụng cho heo ở các giai đoạn khác nhau, bao gồm heo nái mang thai và heo nái cho con bú. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy heo nái có thể không hấp thu được một số chất dinh dưỡng nhất định giống như heo choai.

Trong một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Khoa học Động vật Canada, các nhà khoa học thuộc Đại học Illinois đã tiết lộ rằng heo nái mang thai bị giảm khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho so với heo choai.

Hans H. Stein, giáo sư tại Đại học Illinois và các tác giả liên quan đến nghiên cứu, trình bày rằng: “một điều cần chú ý đó là có rất nhiều heo nái đã bị loại trong các đàn gia súc thương phẩm vì bệnh đau móng, có thể liên quan đến canxi và phốt pho – hai khoáng chất phổ biến nhất trong xương”. “Những kết quả này có thể có liên quan đến tuổi thọ của heo nái trong đàn. Do đó chúng ta cần phải tiến hành nhiều nghiên cứu nhiều hơn trước để có kết luận chính xác.”

Stein và các nhà nghiên cứu ở Illinois, Su A. Lee và Gloria A. Casas đã cho 48 con heo nái mang thai và 24 con heo nái tơ đang phát triển ăn 3 khẩu phần khác nhau. Các khẩu phần bao gồm: khẩu phần 1: bắp-đậu nành tiêu chuẩn; khẩu phần 2: 60% bắp-đậu nành và 40% cám gạo nguyên béo [FFRB]; và khẩu phần 3: 60% bắp-đậu nành và 40% cám gạo đã khử béo [DFRB].

Trong khẩu phần cơ bản bao gồm 1.15% dicalcium phosphate và 0.8% đá vôi, trong khi khẩu phần có chứa FFRB hoặc DFRB chỉ có đá vôi [1.64%]. Phân tích canxi và phốt pho trong ba khẩu phần lần lượt là 0.65% và 0.6% trong khẩu phần cơ bản; 0.66% và 0.98% trong khẩu phần FFRB; và 1.16% và 1.09% trong khẩu phần DFRB. Bổ sung phytase trong tất cả khẩu phần, với giá trị nằm giữa 430 và 690 đơn vị phytase cho mỗi kg khẩu phần hoàn chỉnh.

Bởi vì heo choai được cho ăn tự do trong khi heo nái mang thai bị hạn chế thức ăn, Stein cho biết khó có thể xác định có sự khác biệt về khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng hoặc lượng ăn vào. Do đó, heo nái được cho ăn cả ba khẩu phần ở mức 1.5 hoặc 3.5 lần nhu cầu duytrì năng lượng và heo nái tơ được cho ăn gấp 3.5 lần nhu cầu duy trì.

Mức tiêu thụ thức ăn không ảnh hưởng đến tổng khả năng tiêu hóa biểu kiến tổng thể [ATTD] của canxi hoặc phốt pho ở heo nái mang thai, nhưng ATTD của cả hai loại khoáng đều giảm ở heo nái so với heo nái tơ đang phát triển.

“Phytase là một hợp chất trong ngũ cốc liên kết với phốt pho và canxi,” Stein giải thích. “Chúng tôi muốn xác định xem có sự khác biệt giữa phytate cao và thấp trong hai nhóm không. Đối với heo choai, đúng như chúng ta mong đợi: Khẩu phần chứa phytate cao có khả năng tiêu hóa thấp hơn khẩu phần chứa phytate thấp. Nhưng không có sự khác biệt nào đối với heo nái giữa khẩu phần chứa phytate cao và thấp. Đối với cả hai, giá trị tiêu hóa thấp hơn nhiều so với những gì chúng ta thấy ở heo choai”.

Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy sự khác nhau về khả năng tiêu hóa canxi và phốt pho ở heo nái và heo choai. Stein dự định nghiên cứu tìm hiểu lý do tại sao lại tồn tại sự khác nhau và sự khác biệt đó tại sao lại đúng trong toàn bộ giai đoạn mang thai và cho con bú. Tuy nhiên, những kết quả ban đầu này cho thấy rằng có thể không nên áp dụng kết quả từ heo choai cho heo nái mang thai.

Stein nói: “Có thể trong tương lai chúng ta sẽ cần sử dụng các giá trị tiêu hóa khác nhau cho Ca và P khi chúng ta tổ hợp khẩu phần cho heo nái so với heo choai”. “Điều này có thể cải thiện độ chính xác của khẩu phần, nhưng chúng tôi cần nghiên cứu thêm trước khi chúng tôi có thể đưa ra khuyến cáo về điều này”.

Khi nở ra trong máy ấp nở, cùng với bộ máy tiêu hóa còn rất non nớt, hệ vi sinh vật trong đường ruột của gà con cũng sẽ bị nhiễm hệ vi sinh từ máy ấp nở trong môi trường ấp nở và môi trường chăn nuôi sau đó. Vì vậy, rất cần sự cung cấp cho gà con khởi đầu hệ vi sinh có lợi, giúp hệ vi sinh vật trong đường tiêu hóa gà con phát triển khỏe mạnh và ổn định trong suốt đời sống sản xuất của gà. Bài tóm tắt lược dịch trong tạp chí PoultryWorld [10/2017] với tiêu đề “Why use a starter feed from the day the chicks hatch?” do Carsten Pedersen viết về yêu cầu cần thiết sử dụng khẩu phần khởi đầu. Vì khẩu phần khởi đầu có ý nghĩa rất quan trọng cho gà con mới nở trong vòng 10 ngày đầu tiên. Đặc biệt cần chú ý chất dinh dưỡng protein trong khẩu phần phải dễ tiêu, đầy đủ và cân đối các acid amin thiết yếu cho gà con sinh trưởng nhanh và có sức khỏe tốt trong những ngày đầu mới nở, cũng là tiền đề tốt cho giai đoạn sinh trưởng tiếp theo.

Đặc điểm tiêu hóa của gà con: Gà con sinh trưởng và phát triển với tốc độ lạ thường trong tuần tuổi đầu tiên sau khi nở. Với chỉ từ 34-42 ngày từ khi bắt đầu đến khi kết thúc trong chu kì sản xuất gà thịt, thực hiện sự lựa chọn đúng thức ăn khởi đầu có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Cân nhắc quan trọng cho các nhà chăn nuôi là khả năng tiêu hóa của thức ăn. Cả hai hệ thống tiêu hóa và hệ thống miễn dịch rất chưa hoàn thiện của gà con lúc nở ra. Vì thế, trừ khi thức ăn dễ tiêu hóa, hầu hết các chất dinh dưỡng sẽ đi qua đường tiêu hóa không được hấp thu sẽ bị thải ra trong phân.

Sử dụng túi lòng đỏ dự trữ: Gà con mới nở sẽ rút năng lượng từ các globulin miễn dịch và acid béo chưa bão hòa trong túi lòng đỏ, để lại không nhiều cho quá trình phát triển và sự miễn dịch. Đây là vấn đề hệ trọng cho gà con cần để phát triển các cơ quan cần cho sự sống, có thể gấp 4 lần trọng lượng vào lúc 7 ngày tuổi. Thực tế là gà con có thể mất đến 48 giờ sau nở mới được tiếp cận với thức ăn là áp lực tăng thêm về yêu cầu nuôi dưỡng. Vì tất cả những lý do trên, một thức ăn dưới mức tối ưu sẽ chỉ tăng thêm những thách thức cho gà con cần phải vượt qua. Ngoại trừ gây hại sinh trưởng do quá trình hấp thu chất dinh dưỡng kém, nó sẽ làm tăng thêm khả năng dễ bị tấn công của các loại virus và vi khuẩn gây bệnh, như Salmonella và Campylobacter.

Tầm quan trọng của thức ăn đáp ứng đúng nhu cầu: Nói cách khác, tầm quan trọng của thức ăn đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết của gà con lên đến 10 ngày tuổi cần được làm rõ. Điều tương tự này phải được áp dụng cho gà thịt trong các thời kỳ sinh trưởng và kết thúc. Các nhà chăn nuôi sẽ tìm ra được những gà thịt không đạt được khả năng sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn giảm. Nhiều chất dinh dưỡng cần thiết để đảm bảo quá trình sinh trưởng thích hợp cho gà con. Một trong những chất dinh dưỡng quan trọng nhất là protein. Do chất lượng cao và có chi phí thấp so với nguồn protein động vật, protein đậu nành là sự lựa chọn phổ biến. Vấn đề cần đề cập lại một lần nữa ở đây là khả năng tiêu hóa là yếu tố chủ chốt cho sự thành công trong nuôi dưỡng gà con.

Tối ưu khả năng tiêu hóa của protein đậu nành: Điều cần chú ý sản phẩm cùng với protein đậu nành khi không được xử lý là các yếu tố kháng dưỡng chứa trong nó. Mặc dù không khó khăn đối với gà thịt có tuổi lớn hơn, nhưng hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện của gà con mới nở thì các yếu tố kháng dưỡng có tác động tiêu cực trực tiếp trên sự hấp thu protein và khả năng sinh trưởng khỏe mạnh của gà con. Vấn đề ở đây là cần giảm bớt các yếu tố kháng dưỡng đến một mức thấp nhất, trong khi vẫn duy trì các thành phần protein bổ dưỡng không bị ảnh hưởng. Ngày nay việc làm này có thể thực hiện được bằng kỹ thuật chế biến do nhiều công ty phát triển, trong đó có Hamlet Protein, chuyên chế biến protein đậu nành, dùng cho thức ăn khởi đầu của gà con. Một số lớn đã thực hiện việc chế biến để cải thiện hiệu quả chăn nuôi gà thịt từ những năm 1970, khi vòng đời sản xuất của gà trung bình kéo dài hơn 60 ngày. Một thức ăn khởi đầu được tối ưu hóa sẽ làm cho hệ thống tiêu hóa chưa hoàn thiện của gà con mới nở là giải pháp thêm nữa của quá trình tối ưu hóa đang diễn ra.

Nhận xét: Như bài tóm lược đã đề cập, trong khẩu phần khởi đầu cho gà con cần phải chứa đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng sẽ giúp gà con tiêu hóa, hấp thu để sinh trưởng nhanh trong giai đoạn đầu tiên của đời sống sau khi nở. Gà con có thời kỳ khởi đầu phát triển tốt cũng sẽ là tiền đề cho sự sinh trưởng tốt ở giai đoạn tiếp theo. Ngoài các chất dinh dưỡng trong thức ăn, rất cần các yếu tố bổ sung khác trong thức ăn để trợ giúp cho sự sinh trưởng, sức đề kháng với các điều kiện bất lợi về mầm bệnh và những biến động của môi trường nuôi. Các yếu tố quản trị và chăm sóc khác cũng cần được chú ý để đảm bảo chăn nuôi gà trong điều kiện an toàn sinh học. Cần bổ sung vào khẩu phần hay nước uống gà con ban đầu và suốt gia đoạn nuôi một hoặc kết hợp những sản phẩm của Vemedim Corporation, như Prozyme new, Vitasol, Vitazin,Vita-Yeast, Vitazyme, Bactozyme… theo hướng dẫn trên bao bì sản phẩm theo từng điều kiện áp dụng để đạt kết quả chăn nuôi gà con tốt nhất.

Tài liệu tham khảo

Pedersen C [2017] Why use a starter feed from the day the chicks hatch?

//www.poultryworld.net/Nutrition/Partner/2017/10/Why-use-a-starter-feed-from-the-day-the-chicks-hatch-198378E/?cmpid=NLC|worldpoultry|2017-10-20|Why_use_a_starter_feed_from_the_day_the_chicks_hatch?

Chủ Đề