Christen Press - Cầu thủ bóng đá nữ Mỹ

Hoa Kỳ có đội tuyển bóng đá nữ thành công nhất thế giới khi đã 4 lần vô địch World Cup [trong đó chức vô địch đầu tiên thuộc về giải đấu năm 1991] và 4 lần đoạt huy chương vàng bóng đá nữ Olympic. Cùng với đó, đội còn sở hữu 7 chiếc Cúp vàng CONCACAF và 10 chiếc Cúp Algarve. Cùng với Đức, họ là hai đội tuyển duy nhất từng đứng đầu Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA. Hoa Kỳ đã lấy lại vị trí số 1 từ tay đội tuyển Đức vào ngày 23 tháng 6 năm 2017 và hiện tại vẫn giữ vững vị trí này. Đội được bầu là Đội tuyển của năm của Ủy ban Olympic Hoa Kỳ vào năm 1997 và 1999, còn Sports Illustrated bầu chọn cả đội tuyển là các Nữ vận động viên của năm 1999.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Buổi lễ diễu hành mừng chiến thắng trên đại lộ Canyon of Heroes ở Hạ Manhattan để mừng chiến thắng tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015

Đội có trận đấu đầu tiên tại giải Mundialito gặp Ý vào ngày 12 tháng 8 năm 1985, dưới quyền của huấn luyện viên Mike Ryan, họ đã thua đối phương tối thiểu.

Một trong những chiến tích đáng nhớ nhất của Hoa Kỳ tại World Cup là vào năm 1999 là khi họ vượt qua Trung Quốc với tỷ số 5–4 ở loạt luân lưu trong trận chung kết. Trên 90.000 người [con số lớn nhất cho một sự kiện thể thao nữ] đã lấp đầy sân Rose Bowl để theo dõi trận đấu. Trong loạt luân lưu, Brandi Chastain là người sút thành công quả quyết định và pha ăn mừng của cô trở thành hình ảnh đáng nhớ khi cô quỳ gối xuống mặt cỏ, vẫy chiếc áo thi đấu ăn mừng và để lộ chiếc áo ngực thể thao, hình ảnh sau đó xuất hiện trên bìa tạp chí Sports Illustrated và trang nhất của nhiều tờ báo trong và ngoài nước Mỹ. Chiến thắng này giúp đội trở nên nổi tiếng hơn, đồng thời giúp cho bóng đá nữ nhận được nhiều sự chú ý hơn, cũng như tạo động lực cho những cô gái trẻ tham gia vào các môn thể thao. Tuy nhiên 4 năm sau họ thất bại trong việc bảo vệ ngôi Hậu khi thua Đức [về sau vô địch] 0-3 tại bán kết, dù vậy họ có huy chương đồng khi hạ Canada 3-1

Vào tháng 3 năm 2004, 2 trong số các cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử của bóng đá nữ Hoa Kỳ nói riêng và bóng đá nữ thế giới nói chung, Mia Hamm [người sẽ giải nghệ trong năm 2004 sau khi kết thúc Thế vận hội Mùa hè 2004] và Michelle Akers [người đã giải nghệ], là 2 cầu thủ nữ cũng như 2 người Mỹ duy nhất có tên trong danh sách FIFA 100 gồm 125 cầu thủ vĩ đại nhất còn sống do Pelé bầu chọn nhân kỷ niệm 100 năm FIFA ra đời. Cùng năm, đội đã đạt huy chương vàng tại thế vận hội mùa hè Athens 2004 sau chiến thắng 2-1 trước Brazil nhờ bàn thắng của Wambach ở hiệp phụ.

Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007,Hoa Kỳ đánh bại Anh 3-0 ở tứ kết nhưng sau đó phải chịu thất bại nặng nề nhất trong lịch sử đội bóng khi thua Brazil 0-4 ở bán kết. Họ sau đó đánh bại Na Uy để chiếm vị trí thứ ba. Abby Wambach là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của đội với 6 bàn thắng, và Kristine Lilly là người Mỹ duy nhất có tên trong đội hình toàn sao của giải đấu.

Tại Thế vận hội Mùa hè 2008, họ bảo vệ thành công huy chương vàng khi thắng Brazil 1-0

Tại tứ kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 tại Đức, Hoa Kỳ đánh bại Brazil 5-3 trên chấm phạt đền. Bàn thắng của Abby Wambach ở phút 122 để gỡ hòa 2-2 đã được bình chọn là bàn thắng đẹp nhất trong lịch sử bóng đá Mỹ và là bàn thắng đẹp nhất trong lịch sử World Cup nữ.Mỹ đánh bại Pháp 3-1 trong trận bán kết, nhưng thua Nhật Bản 3-1 trên chấm phạt đền trong trận chung kết sau khi hòa 2-2 cả trận. Hope Solo được vinh danh là thủ môn xuất sắc nhất giải đấu và Abby Wambach đã giành được quả bóng bạc với tư cách là cầu thủ xuất sắc thứ hai của giải đấu.

Tại Thế vận hội Mùa hè 2012, Hoa Kỳ giành huy chương vàng thứ 4 trong 5 lần dự Olympic khi hạ Nhật Bản 2–1 ở trận chung kết trước 80.203 cổ động viên có mặt trên sân Wembley. Trước đó trong trận bán kết gặp Canada, các cầu thủ Mỹ đã 3 lần vươn lên dẫn trước trước khi cú đánh đầu thành bàn của Alex Morgan ở phút thứ 3 thời gian bù giờ hiệp phụ thứ 2 ấn định chiến thắng 4–3. Bàn thắng của Morgan [phút thứ 123] là bàn thắng được ghi muộn nhất trong một trận đấu do FIFA tổ chức.

Vào năm 2013, Hoa Kỳ giữ kỷ lục bất bại với 14 thắng và 2 hòa và là một phần trong chuỗi 43 trận kéo dài trong 2 năm. Chuỗi 43 trận bất bại kết thúc sau thất bại 1–0 trong trận gặp Thụy Điển ở Cúp Algarve 2014. Chuỗi trận bắt đầu bằng trận thắng 4–0 trước chính Thụy Điển tại Cúp Algarve 2012 sau trận thua 1–0 trước Nhật Bản. Vào tháng 12 năm 2013, USSF công bố đội hình 11 cầu thủ nữ xuất sắc nhất mọi thời đại của đội tuyển quốc gia USWNT All-Time Best XI.

Ngày 5 tháng 7 năm 2015, Hoa Kỳ đánh bại Nhật Bản 5–2 trong trận chung kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015, giành chức vô địch World Cup thứ ba của mình. Carli Lloyd ghi 3 bàn trong vòng 16 phút đầu tiên của trận đấu, trong đó có một bàn từ khoảng cách 52 mét, trở thành hat-trick nhanh nhất kể từ lúc bắt đầu trận đấu. Sau chức vô địch thế giới 2015, đội tuyển được tổ chức buổi diễu hành tung hoa giấy ở thành phố New York, buổi diễu hành tung hoa giấy đầu tiên của một đội thể thao nữ, và nhận giải Outstanding Team tại ESPY Awards 2015 và một giải Teen Choice Award cho Nữ vận động viên yêu thích. Đội một lần nữa được vinh danh vào ngày 27 tháng 10 năm 2015 khi Tổng thống Barack Obama tiếp đón họ tại Nhà Trắng.

Một năm sau tại Rio de Janeiro, Hoa Kỳ bước vào hành trình bảo vệ tấm huy chương vàng bóng đá nữ Thế vận hội. Tuy vậy, họ để lại thất vọng lớn khi bị Thụy Điển hạ gục trong loạt penalty ở trận tứ kết. Sau giải, thủ môn chính của đội là Hope Solo bị Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ chấm dứt hợp đồng sau khi có phát ngôn coi thường đối thủ.

Năm 2019 tại Pháp, tuyển nữ Hoa Kỳ xác lập những kỷ lục World Cup mới với lần thứ hai liên tiếp bảo vệ thành công ngôi vương sau khi thắng Hà Lan 2–0 và mang về của họ. Các chân sút Mỹ ghi 26 bàn thắng, nhiều nhất tại một kỳ World Cup và có trận thắng thứ 12 liên tiếp, mạch chiến thắng dài nhất trong lịch sử sân chơi bóng đá lớn nhất hành tinh của cả nam và nữ. Chính quyền New York một lần nữa lên kế hoạch tổ chức diễu hành vinh danh "những cô gái Vàng" vào sáng mùng 10 tháng 7 dọc đại lộ Broadway. Thị trưởng New York Bill de Blasio và tổng thống Mỹ Donald Trump đã có những lời ca ngợi và chúc mừng đội tuyển Mỹ trên Twitter. Kể từ sau thất bại trước Úc tháng 7 năm 2017, đội đã "xé lưới đối phương" ở 45 trận đấu liên tiếp và ghi 148 bàn thắng.

Để nêu thông điệp bình quyền thu nhập giữa nữ và nam, 28 tuyển thủ nữ Hoa Kỳ từng nộp đơn lên Tòa án Liên bang để đưa Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ ra tòa vì vi phạm pháp luật Hoa Kỳ, trong đó nêu đích danh người không chịu thực thi các bước tiến tới bình quyền thu nhập là trưởng các bộ phận kiêm chủ tịch Liên đoàn Carlos Cordeiro.[cần dẫn nguồn]

Hình ảnh của đội[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền thông[sửa | sửa mã nguồn]

Việc truyền hình trực tiếp tại Mỹ cho 5 kỳ World Cup nữ từ 1995 tới 2011 được cung cấp bởi ESPN/ABC và Univision, trong khi bản quyền của ba kì World Cup nữ từ 2015 tới 2023 được trao cho Fox Sports và Telemundo. Vào tháng 5 năm 2014 một hợp đồng được ki kết để phân chia bản quyền phủ sóng truyền hình của các trận đấu của đội tuyển nữ Hoa Kỳ giữa ESPN, Fox Sports, và Univision cho tới cuối năm 2022. Các trận của đội tuyển tại Giải vô địch bóng đá nữ CONCACAF 2014 và Cúp Algarve 2015 được Fox Sports phát sóng.

Trận đấu được nhiều người theo dõi nhất của đội là trận chung kết World Cup 1999 với Trung Quốc, với kỉ lục số người tới sân xem cao nhất cho một sự kiện thể thao nữ: 90.185 người có mặt tại Rose Bowl ở California. Trận đấu giữ kỉ lục số người xem cao nhất tại Mỹ cho một trận đấu bóng đá nữ với trung bình 17.975 triệu người xem và ước tính ít nhất 40 triệu lượt người xem, và là trận đấu bóng đá [cả nam và nữ] phát sóng bằng tiếng Anh được nhiều người xem nhất cho tới trận chung kết World Cup 2015 giữa Mỹ và Nhật.

Trang phục[sửa | sửa mã nguồn]

Màu trang phục của đội tuyển Mỹ kể từ khi thành lập hầu hết là xen kẽ giữa đỏ, trắng, hoặc xanh lam [màu quốc kỳ], với một số ngoại lệ như màu vàng ánh kim vào năm 2007, màu đen vào năm 2011, hay viền đen cùng tất màu xanh neon tại World Cup 2015. Năm 2012 đội bắt đầu mặc cùng màu áo với đội tuyển nam Hoa Kỳ, bắt đầu với bộ trang phục sọc ngang đỏ và trắng. Nike là nhà cung cấp trang phục thi đấu của LĐBĐ Mỹ vào năm 1995, và có thỏa thuận cung cấp trang phục cho tới năm 2022. Đội tuyển nữ Hoa Kỳ bắt đầu mang hai ngôi sao trên huy hiệu kể từ 1999 để tượng trưng cho hai chức vô địch thế giới. Ngôi sao thứ ba được thêm vào tháng 7 năm 2015.

Sân nhà 1986–1996

1986–1996

1991–1994

1991–1994

1991–1998

Sân nhà 1999

Sân khách 1999

1999–2004

2000–2002

2003

2003

2004

2004

Sân nhà 2005–2007

Sân khách 2005–2007

2007–2009

Sân nhà 2007-2009

Sân khách 2007–2008

Sân khách 2008–2009

Sân nhà 2010–2011

Sân khách 2010–2011

Sân nhà 2011–2012

Sân khách 2011–2012

Sân nhà 2012–2013

2012–2013

Sân nhà 2013

Sân nhà 2014–2015

Sân khách 2014–2015

Sân nhà 2015–2016

Sân khách 2015–2016

Sân nhà 2016– 2018

Sân khách 2016– 2018

Thành tích[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch bóng đá nữ thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kết quả ST T H* T BT BB Huấn luyện viên

1991 Vô địch 6 6 0 0 25 5 Anson Dorrance
1995 Hạng ba 6 4 1 1 15 5 Tony DiCicco
1999 Vô địch 6 5 1 0 18 3 Tony DiCicco
2003 Hạng ba 6 5 0 1 15 5 April Heinrichs
2007 6 4 1 1 12 7 Greg Ryan
2011 Á quân 6 3 2 1 13 7 Pia Sundhage
2015 Vô địch 7 6 1 0 14 3 Jill Ellis
2019 7 7 0 0 26 3
2023 Vòng 16 đội 4 1 2 1 4 1 Vlatko Andonovski Tổng cộng 9/9 54 51 8 5 142 39

Thế vận hội Mùa hè[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kết quả ST T H* T BT BB Huấn luyện viên

1996 Vô địch 5 4 1 0 9 3 Tony DiCicco
2000 Á quân 6 4 1 1 9 5 April Heinrichs
2004 Vô địch 6 5 1 0 12 4 April Heinrichs
2008 6 5 0 1 12 5 Pia Sundhage
2012 6 6 0 0 16 6 Pia Sundhage
2016 Tứ kết 4 2 2 0 6 3 Jill Ellis
2020 Hạng 3 6 2 2 2 12 10 Vlatko Andonovski
2024 Vượt qua vòng loại Tổng cộng 8/8 38 27 4 2 76 36

CONCACAF Gold Cup[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Kết quả T T H* T BT BB Huấn luyện viên

1991 Vô địch 5 5 0 0 49 0 Anson Dorrance
1993 3 3 0 0 13 0
1994 4 4 0 0 16 1 Tony DiCicco 1998 Không tham dự
2000 Vô địch 5 4 1 0 24 1 April Heinrichs
2002 5 5 0 0 24 1
2006 2 2 0 0 4 1 Greg Ryan
2010 Hạng ba 5 4 0 1 22 2 Pia Sundhage
2014 Vô địch 5 5 0 0 21 0 Jill Ellis
2018 5 5 0 0 26 0
2022 5 5 0 0 13 0 Vlatko Andonovski Tổng cộng Vô địch 39 37 1 1 199 6

Đội hình hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách triệu tập cho World Cup nữ 2022.

Số trận và bàn thắng tính đến 6 tháng 8 năm 2023, sau trận gặp Thụy Điển.

Triệu tập gần đây[sửa | sửa mã nguồn]

Các cầu thủ dưới đây được triệu tập trong vòng 12 tháng.

Chú thích:

  • PRE: Đội hình sơ bộ
  • PRO: Lý do cá nhân

Ban huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]

Ban huấn luyện hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí Tên Thời gian nhậm chức Huấn luyện viên trưởng

Vlatko Andonovski Tháng 10, 2019 Trợ lý huấn luyện viên
Milan Ivanovic Tháng 11, 2019
Erica Dambach [tạm quyền] Thang 1, 2020 Huấn luyện viên thủ môn
Philip Poole Tháng 1, 2020

Nguồn

Các đời huấn luyện viên trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Thời gian Số trận Thắng Hòa Thua

Ryan, MikeMike Ryan1985 4 0 1 3
Dorrance, AnsonAnson Dorrance1986–1994 93 66 5 22
DiCicco, TonyTony DiCicco1994–1999 119 103 8 8
Gregg, LaurenLauren Gregg1997–2000 3 2 1 0
Heinrichs, AprilApril Heinrichs2000–2004 124 87 20 17
Ryan, GregGreg Ryan2005–2007 55 45 9 1
Sundhage, PiaPia Sundhage2007–2012 107 91 10 6
Sermanni, TomTom Sermanni2013–2014 23 17 4 2
Ellis, JillJill Ellis2012, 2014–2019 76 59 13 5
Vlatko Andonovski 2019–2023 65 51 9 5
Kilgore, TwilaTwila Kilgore2023–nay [tạm quyền] 0 0 0 0 Tổng 727 570 86 71 Tính đến 17 tháng 8 năm 2023

Kết quả và lịch thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

2019[sửa | sửa mã nguồn]

  • US Football Schedule
  • US Football Results
  • Lưu trữ 2015-02-22 tại Wayback Machine

Kỉ lục cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển nữ Hoa Kỳ là đội tuyển sở hữu 6 cầu thủ đầu tiên trong lịch sử bóng đá khoác áo đội tuyển quốc gia đủ 200 lần [cả nam và nữ] gồm: Kristine Lilly, Christie Rampone, Mia Hamm, Julie Foudy, Joy Fawcett, Tiffeny Milbrett. Sau này còn có nhiều cầu thủ nữ của các quốc gia khác lặp lại thành tích này cũng như 4 cầu thủ Mỹ gồm: Kate Markgraf, Abby Wambach, Heather O'Reilly, Carli Lloyd và Hope Solo. Kristine Lilly, Carli Lloyd và Christie Rampone là những cầu thủ duy nhất có trên 300 trận quốc tế.

Các cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Số liệu tính tới ngày 30 tháng 11 năm 2021.

Danh sách đội trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Năm làm đội trưởng Tên cầu thủ Số trận Bàn thắng Thời gian thi đấu 1985 Denise Bender 4 0 1985 1986–1987 Emily Pickering 15 2 1985–1992 1988–1991 Lori Henry 39 3 1985–1991 1991 April Heinrichs 46 35 1986–1991 1993–2000 Carla Overbeck 170 4 1988–2000 2000–2004 Julie Foudy 274 45 1987–2004 2000–2004 Joy Fawcett 241 27 1987–2004 2004–2008 Kristine Lilly 354 130 1987–2010 2008–2015 Christie Rampone 311 4 1997–2015 2016–2018 Becky Sauerbrunn 199 0 2008– 2016–2020 Carli Lloyd 281 113 2005–2021 2018–2020 Alex Morgan 190 115 2010– Megan Rapinoe 187 62 2006– 2021– Becky Sauerbrunn 199 0 2008–

Danh hiệu khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giải vô địch và Cúp vàng CONCACAF Vô địch: 1991, 1993, 1994, 2000, 2002, 2006, 2014
  • Vòng loại bóng đá nữ Olympic 2016 CONCACAF Vô địch: 2004, 2008, 2012, 2016
  • Cúp Algarve Vô địch: 2000, 2003, 2004, 2005, 2007, 2008, 2010, 2011, 2013, 2015
  • U.S. Cup Vô địch: 1995, 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2002
  • Giải bóng đá nữ bốn quốc gia Vô địch: 1998, 2003, 2004, 2006, 2007, 2008, 2011
  • Peace Queen Cup Vô địch: 2006, 2008
  • Albena Cup Vô địch: 1991
  • SheBelieves Cup Vô địch: 2016, 2018
  • Giải kỷ niệm 100 năm DFB Vô địch: 2000
  • Cúp Thái Bình Dương Vô địch: 2000
  • Cúp Brasil Vô địch: 1996
  • Cúp Bắc Mỹ Vô địch: 1990
  • Cúp Canada Vô địch: 1990
  • Cúp Úc Vô địch: 2000
  • Tournoi International Vô địch: 1995
  • Cúp Chiquita Vô địch: 1994
  • Tri-Nations Tournament Vô địch: 1994
  • Goodwill Games Vô địch: 1998
  • Cúp Columbus Vô địch: 1993

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách các đội tuyển bóng đá nữ quốc gia
  • Đội tuyển bóng đá quốc gia Hoa Kỳ

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • “Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 24 tháng 3 năm 2023. Truy cập 24 tháng 3 năm 2023.
  • ^ “U.S. SOCCER FEDERATION 2015 WOMEN'S NATIONAL TEAM MEDIA GUIDE [PDF]”. U.S. Soccer. ngày 1 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2015.
  • “USOC Olympic Athlete and Team Awards”. U.S. Olympic Committee. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2015.
  • “U.S Women Finish 1999 on Top of the Sporting World as Sports Illustrated Names Women's World Cup Champs 1999”. U.S. Soccer. ngày 13 tháng 12 năm 1999.
  • “SOCCER; 1999 Women's World Cup: Beautiful Game Takes Flight”. Nytimes.com. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  • Author: sigroup [ngày 4 tháng 5 năm 2012]. “Brandi Chastain « Inside Sports Illustrated”. Insidesportsillustrated.com. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2012.
  • Dare to Dream. Ouisie Shapiro. HBO Productions, 19/9/2007. Video
  • “Tuyển bóng đá nữ Nhật Bản vô địch thế giới”.
  • “U.S. tops Japan for soccer gold”. ESPN.com. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
  • “U.S. Women's National Team Squares Off Against Australia on Wednesday in Fan Tribute Tour”. USSoccer.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2012.
  • “Streak's snapped, but US must regroup in Algarve”. Equalizer soccer. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
  • “Newspaper reminder of magnitude of Sweden's win”. Equalizer soccer. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
  • “Obama welcomes women's US World Cup team to White House”. Channel NewsAsia. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2015.
  • “Hope Solo calls Sweden 'bunch of cowards' after USA falter at Olympics”. The Guardian. 13 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2016.
  • “U.S. Soccer Suspends Hope Solo and Terminates Her Contract”. The New York Times. 24 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2016.
  • “Vạ miệng, thủ môn huyền thoại tuyển Mỹ bị treo giò 6 tháng”.
  • “Đội tuyển Mỹ lập nhiều kỷ lục tại World Cup bóng đá nữ 2019”. msn.com. 8 tháng 7 năm 2019.
  • “Tuyển Mỹ lập hàng loạt kỷ lục trong ngày vô địch World Cup nữ”.
  • Wagman, Robert [ngày 2 tháng 11 năm 2005]. “ABC/ESPN, Univision pay record $425 million for men's, women's Cups through 2014”. soccertimes.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • Deitsch, Richard [ngày 16 tháng 12 năm 2014]. “Fox's Women's World Cup TV schedule includes games on main network”. Sports Illustrated. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • Longman, Jere [ngày 21 tháng 10 năm 2011]. “Fox and Telemundo Win U.S. Rights to World Cups”. NY Times. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • Parker, Ryan [ngày 13 tháng 2 năm 2013]. “2026 World Cup TV rights awarded without bids; ESPN 'surprised'”. LA Times. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • “U.S. Soccer and MLS Sign Landmark TV Deals”. ngày 12 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • Le Miere, Jason [ngày 15 tháng 10 năm 2014]. “USA Women's Soccer World Cup Qualifying: Schedule, TV Channel And Preview For Concacaf Championship”. International Business Times. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • “WNT Opens its 20th Algarve Cup against Norway”. U.S. Soccer. ngày 3 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2015.
  • “FIFA Women's World Cup - USA 1999 Overview”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  • Brown, Maury [ngày 23 tháng 6 năm 2014]. “U.S.A. Vs. Portugal Highest-Rated Ever World Cup Match for ESPN”. Forbes.
  • “WOMEN'S WORLD CUP; And Strong TV Ratings, Too”. NY Times. ngày 12 tháng 7 năm 1999.
  • Sandomir, Richard [ngày 6 tháng 7 năm 2015]. “Women's World Cup Final Was Most-Watched Soccer Game in United States History”. NY Times.
  • ^ “Women's National Team Unveils New 2007 World Cup Jerseys”. U.S. Soccer. ngày 20 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • ^ Chappell, Bill [ngày 8 tháng 7 năm 2011]. “U.S. Women Likely To Wear 'Black Widow' Uniforms Against Brazil”. National Public Radio. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • ^ “U.S. Men's and Women's National Teams Unveil New Nike Home Jersey”. U.S. Soccer. ngày 16 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • “Nike and U.S. Soccer Renew Long-Term Partnership that will Extend Relationship into Fourth Decade”. U.S. Soccer. ngày 20 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • Boudway, Ira [ngày 21 tháng 11 năm 2014]. “Nike Doesn't Sell U.S. Women's National Soccer Team Jerseys to Men”. Bloomberg. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • “USWNT Official Twitter victory announcement”. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2015.
  • ^ Schwarz, Joe [ngày 18 tháng 2 năm 2015]. “Comparing the new USWNT World Cup Away Jersey to the last four”. soccer.com.
  • Black, Michael [ngày 1 tháng 4 năm 2010]. “Soccer: U.S. women slip 'n' slide past Mexico”. Deseret News.
  • “U.S. Defeats Germany 1-0 in Augsburg, Germany”. U.S. Soccer. ngày 29 tháng 10 năm 2009.
  • Cohen, Aubrey [ngày 28 tháng 6 năm 2011]. “Are U.S. women's latest uniforms the ugliest yet?”. seattlepi. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • “U.S. Men's National Team Unveils New Nike Away Kit Against Italy”. U.S. Soccer. ngày 29 tháng 2 năm 2012.
  • “U.S. Soccer and Nike Unveil New U.S. Men's and Women's Kit Celebrating 100 Years of U.S. Soccer”. U.S. Soccer. ngày 1 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • Yomtov, Jesse [ngày 3 tháng 3 năm 2014]. “U.S. reveals 2014 World Cup jersey, and it looks like a polo shirt”. USA Today.
  • “U.S. Soccer Unveils 2014 National Team Away Kit”. U.S. Soccer. ngày 1 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2015.
  • “U.S. Women's National Team Unveils New 2015 Nike Home Kit”. U.S. Soccer. ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  • “U.S. MNT and WNT 2015 Nike Away Kit Debuts This March”. U.S. Soccer. ngày 16 tháng 2 năm 2015.
  • ^ “2016 USA National Team Jerseys Unveiled”. USSoccer. ngày 17 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2016.
  • “U.S. Women's Soccer Team Wins Gold”. WashingtonPost.com. ngày 2 tháng 8 năm 1996. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
  • Homewood, Brian [ngày 22 tháng 8 năm 2008]. “U.S. retain gold against Brazil in women's soccer | Reuters”. In.reuters.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2012.
  • “News & Stories U.S. Soccer Official Website”. Truy cập 13 tháng 9 năm 2023. //www.ussoccer.com/stories/2017/02/24/15/09/20170224-news-wnt-us-soccer-changes-youth-womens-national-team-staff-michelle-french-bj-snow

Chủ Đề