Chiến lược toàn cầu hóa chuẩn là gì

BÁO CÁO THUYẾT Trình - dsg nám bgsrdngbhjdsf hjbfhdsjfbdshfbasj whjjfbadshb ashfahdf bahwgfbvhjnm bnHANFBHCN

Related documents

  • III. starbucks trung quốc
  • Trắc nghiệm T3 - Bài tập cá nhân_chương 2
  • ĐỀ THI Qtcltc - jkdsu flkvbwebio;uq vư kulqn wqi v0c vo weufdan ơi kuby el lq iw ch
  • BÀi tập chương 2
  • Thị trường mới nổi
  • Chapter 1 - QTCL

Preview text

Quản trị toàn cầu là tập hợp các thể chế, quy định, chuẩn tắc và dàn xếp pháp lý nhằm quản lý quan hệ giữa các quốc gia và tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực vấn đề khác nhau.

Quản trị toàn cầu có thể được xem là một nhân tố mới làm thay đổi nền chính trị thế giới hiện đại. Quản trị toàn cầu ra đời cùng với sự xuất hiện của các chủ thể mới trong quan hệ quốc tế và được thúc đẩy bởi ba yếu tố quan trọng.

Thứ nhất là sự kết thúc Chiến tranh Lạnh. Điều này làm gia tăng kỳ vọng rằng các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc sẽ đóng vai trò lớn hơn trong việc quản lý hệ thống quốc tế. Thứ hai là sự xuất hiện ngày càng nhiều các vấn đề toàn cầu. Việc giải quyết các vấn đề này đòi hỏi một cách tiếp cận toàn cầu được phối hợp hài hòa giữa các quốc gia với nhau và do đó quản trị toàn cầu trở thành một giải pháp quan trọng nhằm đối phó với các vấn đề này. Thứ ba, quản trị toàn cầu cũng có thể coi là kết quả của quá trình toàn cầu hóa trên nhiều mặt văn hóa, kinh tế, chính trị. Quá trình này được thực hiện thông qua sự phát triển của khoa học công nghệ, sự xuất hiện của internet và các phương tiện kỹ thuật khác vốn giúp giảm bớt những cách trở về mặt địa lý và tăng cường các mạng lưới liên kết trên quy mô toàn cầu. Những tư duy theo hướng toàn cầu vì vậy ngày càng trở nên phổ biến hơn và làm cho khái niệm quản trị toàn cầu trở nên dễ chấp nhận hơn đối với các quốc gia.

Như đã đề cập, quản trị toàn cầu ra đời cùng với sự xuất hiện của các tổ chức hợp tác đa phương toàn cầu hay các thể chế toàn cầu. Trong đó quan trọng nhất là sự xuất hiện của Liên Hiệp Quốc, các tổ chức hợp tác kinh tế đa phương, tiêu biểu như Hiệp định Chung về Thuế quan và Mậu dịch [GATT] – tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO], Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] hay Ngân hàng Thế giới [WB]. Sự xuất hiện của các thể chế toàn cầu này đi cùng với vai trò của Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hoa Kỳ với tiềm năng kinh tế, quân sự của mình đảm nhiệm vai trò lãnh đạo thế giới và có nhiều sáng kiến trong việc thiết lập một trật tự thế giới mới mà trong đó Hoa Kỳ đóng vai trò lãnh đạo. Chính vì vậy, có thể nói các cơ chế hợp tác đa phương được thành lập theo sáng kiến và thiết kế của Hoa Kỳ, phản ánh lợi ích của quốc gia này cùng các đồng minh thân cận. Tuy nhiên cùng lúc đó những thể chế toàn cầu này cũng là kết quả của sự hợp tác ngày càng tăng của các quốc gia kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Hơn nữa, quản trị toàn cầu cũng là kết quả của các mạng lưới liên kết kinh tế ngày càng tăng sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia [MNCs] làm lu mờ các đường biên giới và tác động tới hoạt động kiểm soát nền kinh tế của các quốc gia. Theo đó, các quốc gia mất dần khả năng quản lý độc lập các hoạt động kinh tế vì tính phụ thuộc ngày càng tăng, một phần bắt nguồn từ việc quy mô hoạt động của các MNCs trải rộng trên nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau. Cũng do hoạt động của các MNCs, sự lưu chuyển tự do của các dòng vốn nhằm khai thác các lợi thế so sánh đã làm gia tăng các mạng lưới liên kết kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ giúp rút ngắn các khoảng cách địa lý và gia tăng tốc độ thông tin đã thay đổi quan niệm về việc tổ chức các hoạt động kinh tế trong một khu vực địa lý riêng biệt. Stephen Kobrin nhận xét rằng “Quản lý kinh tế ở các hệ thống quốc gia hiện đại giả định rằng tất cả các giao dịch diễn ra ở một nơi nào đó; rằng tất cả các dòng thu nhập, sản xuất, bán hàng, vay nợ và trao đổi tiền tệ có thể được định vị chính xác ở một không gian địa lý.” Tuy nhiên, với sự xuất hiện của một nền kinh tế số toàn cầu, ranh giới giữa các giao dịch trong nước và quốc tế đang “trở nên mờ dần”.

Quản trị toàn cầu cũng xuất hiện cùng với những quy định, chuẩn mực chung cho các hoạt động quốc tế. Các quốc gia khi tham gia vào các tổ chức hợp tác đa phương phải tuân theo những quy định và chuẩn mực này. Luật pháp quốc gia cũng phải thay đổi nhằm tương thích với các quy định của luật pháp quốc tế. Chính vì vậy việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế có thể nói là một dấu hiệu đặc trưng của quản trị toàn cầu. Ví dụ, các quy định đối với các hoạt động sản xuất hay hệ thống ngân hàng nếu trước đây thuộc toàn quyền quyết định của các quốc gia, thì hiện nay các quốc gia đều tìm cách tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất hay quản trị hệ thống ngân hàng nhằm tăng sức hút của nền kinh tế quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế tốt hơn.

Hiện nay nhìn chung có hai luồng quan điểm trái ngược nhau đối với vấn đề quản trị toàn cầu. Một mặt nhiều nhà quan sát cho rằng các quốc gia nên theo đuổi vấn đề quản trị toàn cầu một cách tiệm tiến, tận dụng các thể chế và cơ chế hiện có mà không làm xói mòn vai trò của các quốc gia với tư cách là những chủ thể quan trọng nhất trong hệ thống quốc tế. Mặt khác, nhiều người lại cho rằng các nhà nước là một dạng chủ thể đã lỗi thời trong thế kỉ 21, không đủ năng lực quản trị được các vấn đề mang phạm vi toàn cầu như môi trường, bệnh dịch, nghèo đói, hay khan hiếm nguồn lực. Những vấn đề này quá phức tạp và không thể giải quyết được bởi từng quốc gia riêng lẻ,

thậm chí là một nhóm các quốc gia. Chính vì vậy các nhà nước cần nhường chỗ cho các thể chế siêu quốc gia có vai trò ngày càng tăng và lấn át vị trí của các nhà nước quốc gia có chủ quyền.

Những quan điểm trên cho thấy quản trị toàn cầu vẫn là một khái niệm còn gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên nhìn chung hiện nay đa số các quốc gia vẫn cho rằng quản trị toàn cầu làm xói mòn chủ quyền của các quốc gia, một điều mà họ lo ngại. Nói cách khác, trong khi các quốc gia vẫn đang tìm kiếm các cách thức nhằm quản lý hệ thống quốc tế hiệu quả hơn, họ vẫn chưa thể sẵn sàng cho phép một tổ chức siêu quốc gia quản lý họ một cách trực tiếp. Hơn nữa, chủ quyền quốc gia vẫn đang là một lý tưởng quan trọng đối với nhiều bộ phận dân cư trên toàn cầu, đặc biệt là những nhóm dân tộc đang theo đuổi quyền dân tộc tự quyết cho mình. Ngoài ra, nhiều nhà phê bình cũng e ngại rằng quản trị toàn cầu sẽ phản ánh chỉ các giá trị và lợi ích của các nước giàu và phát triển mà không bảo vệ lợi ích của các nước nghèo và kém phát triển. Chính vì vậy trong bối cảnh hiện nay và tương lai gần, quản trị toàn cầu nên được hiểu là một hình thức quản lý toàn cầu hơn là một dạng chính phủ toàn cầuến lược toàn cầu hay global strategy là chiến lược cạnh tranh với mục đích gia tăng lợi nhuận thông qua việc cắt giảm chi phí trên phạm vi toàn thế giới. Phương pháp này tập trung tới hoạt động kinh doanh trong môi trường tiêu chuẩn hóa và thống nhất trên toàn cầu với mức chi phí tương q uan thấp.

1 IBao gồm cả bay ến và bay i. Du khách quốc tế ước ạt 18 triệu lượt vào năm 2019 và 3 triệu lượt vào năm 2020. Nguồn: CBRE; Cục Hàng không Việt Nam; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam Ngành du lịch Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19. Chuyến bay nội ịa Hà Nội Tp. Hồ Chí Minh Việt Nam Oct 2019 Oct 2020 62 46 Chuyến bay quốc tế Oct 2019 Oct 2020 34 7 81 100 100 37 2019 H1 2020 2019 H1 2020 2019 H1 2020 69 28 61 29 N

Chiến lược quốc tế là công ty thực hiện một chiến lược kinh doanh trên tất cả các thị trường trong và ngoài nước của mình, bằng cách chuyển dịch các kỹ năng và sản phẩm có giá trị cho thị trường nước ngoài, nơi mà các đối thủ cạnh tranh bản xứ thiếu các kỹ năng hoặc sản phẩm này. Các sản phẩm của công ty được nghiên cứu và phát triển từ công ty mẹ rồi mới được sản xuất ở các xưởng, bộ phận ngoài nước.

Chiến lược kinh tế toàn cầu là sự mở rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc gia bằng cách tiêu chuẩn hóa các sản phẩm và dịch vụ. Mục đích là để mở rộng thị trường, sản xuất được nhiều hàng hóa, có nhiều khách hàng và kiếm được lợi nhuận cao hơn. Bên cạnh đó, việc thực hiện chiến lược toàn cầu giúp công ty khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh của mình.

là một chiến lược phổ biến đối với nhiều doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm mang tính tiêu chuẩn hóa, nhằm mục đích vạch ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên chi phí trong phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng chiến lược này một cách hiệu quả

Chiến lược toàn cầu hay global strategy là chiến lược cạnh tranh với mục đích gia tăng lợi nhuận thông qua việc cắt giảm chi phí trên phạm vi toàn thế giới. Phương pháp này tập trung tới hoạt động kinh doanh trong môi trường tiêu chuẩn hóa và thống nhất trên toàn cầu với mức chi phí tương quan thấp.

Quản trị chiến lược giúp cho một doanh nghiệp có thể chủ động hơn vào các cơ hội và các nguy cơ trong việc vạch rõ tương lai của mình; nó cho phép một doanh nghiệp có thể tiên phong và gây ảnh hưởng cho môi trường nó hoạt động. Quá trình quản trị chiến lược bặt buộc nhà quản lý phải phân tích và dự báo các điều kiện trong tương lai gần và tương lai xa. Nhờ đó nhà quản lý có khả năng nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội và loại bỏ được các nguy cơ liên quan đến điều kiện môi trường.

Thực hiện quản trị chiến lược sẽ giúp các doanh nghiệp thấy rõ được mục đích và hướng đi của mình xét doanh nghiệp đi theo hướng nào và khi nào thì đạt được kết quả cụ thể nhất.

Nhờ có quản trị chiến lược, chúng ta sẽ gắn liền các quyết định đề ra với môi trường liên quan. Quyết định chủ động là sự cố gắng dự báo môi trường và sau đó tác động hoặc làm thay đổi điều kiện dự báo sao cho có thể đạt được mục tiêu đề ra.

Một vài tiêu chí để đánh giá văn hóa doanh nghiệp:

nghiệp vừa và nhỏ trở thành những doanh nghiệp lớn mạnh trên thị trường. Vì thế các doanh nghiệp phải chắc chắn nắm trong tay các nhà quản trị tài ba và các chiến lược quản trị phù hợp.

Điều kiện cần khi thực hiện quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ đó chính là xác định được điểm mạnh và điểm yếu của Doanh nghiệp, xác định thị trường liên quan mà doanh nghiệp đang hoạt động và sự canh tranh khốc liệt trên thị trường đó.

Điều kiện đủ chính là vạch ra kế hoạch quản trị và thực hiện kế hoạch một cách hiệu quả nhất.

Để thực hiện hoàn hảo các điều kiện đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ cần tập trung vào các nội dung sau:

Chú trọng vào tầm nhìn cốt lõi

Nhà quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xác định được hướng đi chính của doanh nghiệp là gì. Doanh nghiệp muốn phát triển tăng tốc trong thời gian ngắn lấy lợi luận cao tức thời hay phát triển lâu dài bền vững.

Từ đó, nắm bắt các nguồn lực kinh tế, đánh giá SWOT [cơ hội, thách thức] của doanh nghiệp, định hướng doanh nghiệp đi đúng hướng phát triển cốt lõi.

Với những định hướng khác nhau sẽ cho ra các kế hoạch quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau. Cho nên, các nhà quản trị phải thật cẩn thật khi xác định hướng đi của doanh nghiệp mình để có được kế hoạch quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ hiệu quả nhất.

Thúc đẩy hoạt động bên trong của Doanh nghiệp

Một trong các nhân tố quan trọng hàng đầu của một doanh nghiệp đó là nguồn nhân lực của Công ty. Nguồn nhân lực phải thực sự tiềm năng mới thúc đẩy hiệu quả công việc và giúp Doanh nghiệp phát triển nhanh chóng và lâu dài. Một Doanh nghiệp quản trị nhân sự tốt được coi là bước đầu tiên quyết định hiểu quả của hoạt động quản trị Doanh nghiệp.

Sau khi đã xác định được hướng đi cốt lõi của mình, Doanh nghiệp phải bắt tay ngay vào việc tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực tiềm năng. Đồng thời, bố trí nhân sự vào các vị trí phù hợp để đạt năng suất làm việc cao nhất.

Các nhà quản trị phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng nhân sự để kịp thời có những chiến lược mới phù hợp để đào tạo nguồn nhân lực của Doanh nghiệp để phát tiển chất lương liên tục cũng như kịp thời chấn chỉnh các nhân sự yếu kém gấy ảnh hưởng đến Công ty. Bên cạnh đó, rất cần thiết phải thiết lập mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ Doanh nghiệp từ cấp trên đến cấp dưới để Doanh nghiệp đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

Đặt ra mục tiếu chiến lược phát triển phù hợp và rõ ràng

Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đặt ra các mục tiêu chiến lược ngắn hạn và dài hạn cho sự phát triển của Doanh nghiệp một cách chi tiết và rõ ràng.

Dựa vào các mục tiêu đó để tiến hành thực hiện quản trị doanh nghiệp và cố gắng nổ lực hoành thành kế hoạch đạt hiệu quả 100%.

Đề cao hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ

Tài chính là vấn đề chủ chốt để duy trì sự tồn tại và phát triển của một Doanh nghiệp. Do đó, hoạt động quản lý tài chính là vấn đề được quan tâm sao sát nhất trong doanh nghiệp.

Nguồn lực tài chính càng cao thì triển khai các kế hoạch, chiến lược phát triển doanh nghiệp càng nhanh và hiệu quả. Nhà quản trị phải nắm bắt được các vấn đề tài chính như: vốn, khoản vay, doanh thu, lợi nhuận, lợi tức, cổ tức... từ đó quyết định nên an toàn hay mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh.

Có nhà quản trị nhân tiềm năng có tầm nhìn

Chủ thể quyết định các kế hoạch quản trị trong doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là các nhà quản trị doanh nghiệp. Quyết định đúng đắn hay sai lầm là dựa vào năng lực của nhà quản trị giỏi hay dở.

Do đó, Doanh nghiệp vừa và nhỏ khi thành lập cần chuẩn bị cho mình các nhà quản trị tiềm năng, có năng lực và tầm nhìn xa trộng rộng, biết đánh giá từng trường hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Các vị trí quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thấy như: Giám đốc kinh doanh, Giám đốc hành chính, Giám đốc doanh nghiệp, chuyên viên quản trị và phát triển thị trường hoặc các vị trí khác tùy vào tổ chức của Doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Vạch ra kế hoạch quản trị doanh nghiệp phù hợp và hiệu quả

Cuối cùng, sau rất nhiều yếu tố cần phải chú ý cũng để phục vụ cho mục đích đề ra một kế hoạch quản trị phù hợp với quy mô vừa và nhỏ của Doanh nghiệp.

Vạch ra một kế hoạch hiệu quả nhất đồng thời thực hiện xuyên suốt lâu dài cho sự phát triển của Doanh nghiệp.

Khi nhắc tới chiến lược chi phí thấp là một hệ thống các cơ chế, hành động của doanh nghiệp có mối quan hệ nhất quán nhằm sản xuất hoặc cung ứng hàng hóa và dịch vụ tại chi phí thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo những tính năng phù hợp với nhu cầu của khách hàng.

Trang chủ

Kinh tế học

Chiến lược chi phí thấp là gì? Nội dung và ví dụ minh họa chiến lược?

Luật sư Nguyễn Văn Dương

29/11/

Kinh tế học

0

Chiến lược chi phí thấp là gì? Nội dung và ví dụ minh họa chiến lược? Muốn thực hiện có hiệu quả chiến lược kinh doanh chi phí thấp cần những yếu tố nào?

Đối với hoạt động của mỗi doanh nghiệp, khi tiến hành sản xuất kinh doanh loại hàng hóa hay mặt hàng cụ thể nào đó doanh nghiệp đều có những chiến lược kinh doanh để tìm ra sự phù hợp cho quá trình phát triển doanh nghiệp cách tốt nhất có thể, hiện nay có thể kể tới ứng dụng trong mô hình chiến lược chi phí thấp, đây là chiến lược được khá nhiều doanh nghiệp áp dụng vì lợi ích mà nó mang lại. Vậy cụ thể để hiểu thêm về chiến lược chi phí thấp là gì? Nội dung và ví dụ minh họa chiến lược?

Như vậy ta thấy giải pháp để thanh công của chiến lược chi phí thấp là đem lại giá trị mà khách hàng mong đợi ở mức chi phí đảm bảo khả năng sinh lợi thỏa đáng đây là trò chơi mà Wal-mart đã tham gia và chiến thắng trong nhiều năm và họ đã siết chặt chi phí từ các nhà cung ứng của họ nhiều hơn bất kì nhà bán lẻ lớn nào khác.

Chiến lược khác biệt hóa [Differentiation Strategy] là một chiến lược rất hiệu quả thường được sử dụng nhằm định hướng chiến lược kinh doanh, chiến lược thương hiệu và chiến lược marketing. Khi sử dụng chiến lược khác biệt hóa, doanh nghiệp cần lựa chọn một đặc tính thương hiệu quan trọng mà khách hàng mục tiêu mong muốn. Sau đó đẩy mạnh truyền thông để truyền tải thông điệp rằng mình là thương hiệu duy nhất có đặc tính đó, cũng như là thương hiệu duy nhất giải quyết được vấn đề/nhu cầu liên quan đến đặc tính đó của khách hàng.

Một khi chiến lược khác biệt hóa thành công, thương hiệu sẽ nắm giữ vị trí “độc tôn” trong lĩnh vực mà mình đang kinh doanh. Khi khách hàng nhắc tới đặc tính nổi trội sẽ nghĩ tới thương hiệu và thương hiệu cũng sẽ là lựa chọn hàng đầu khi khách hàng muốn mua sản phẩm/dịch vụ.

Ví dụ: Vào giai đoạn 2018-2019, khi cơn sốt “trân châu đường đen” vừa bùng nổ thì The Alley là thương hiệu tiên phong đưa món sữa tươi trân châu đường đen vào Việt Nam. Tận dụng lợi thế trên thị trường chưa có đơn vị nào có món này, The Alley đã biến sữa tươi trân châu đường đen trở thành signature của mình và tạo nên xu hướng đi uống sữa tươi trân châu đường đen trong giới trẻ, dù rằng giá thành 1 cốc không hề rẻ [trên 60 đồng].

  1. Ưu và nhược điểm của chiến lược khác biệt hóa
  2. Ưu điểm của chiến lược khác biệt hóa

Xây dựng được hình ảnh thương hiệu có cá tính riêng, có điểm nhận biết phân biệt được với các thương hiệu khác trên thị trường.

Chiến lược khác biệt hoá sẽ giúp thương hiệu sở hữu được một tệp khách hàng rộng và có lòng trung thành với thương hiệu rất vững chắc. Khi nảy sinh nhu cầu mua sản phẩm, điều đầu tiên họ nghĩ tới là thương hiệu, khách hàng không quá quan tâm hoặc sẽ bỏ qua yếu tố giá bán. Vì thế, thương hiệu có thể định giá bán cao hơn so với những đối thủ nhưng khách hàng vẫn sẽ lựa chọn họ.

Tạo thành rào cản gia nhập ngành với các đối thủ tiềm năng. Dù có thể không phải là doanh nghiệp duy nhất kinh doanh mặt hàng đó, nhưng bởi vì thương hiệu đã gần như trở thành “thương hiệu độc quyền” trong nhận thức của khách hàng và tạo dựng được uy tín, vậy nên phần lớn khách hàng sẽ không muốn mạo hiểm mua hàng của một thương hiệu mới chưa có tên tuổi thay vì thương hiệu quen thuộc.

  1. Nhược điểm của chiến lược khác biệt hóa

Doanh nghiệp sẽ phải đầu tư, tốn nhiều chi phí, chất xám và thời gian để nghiên cứu, phát triển và tạo ra các sản phẩm/dịch vụ khác biệt hóa, đặc biệt là trong giai đoạn đầu.

Khi thị trường phản ứng tốt với điểm khác biệt của thương hiệu thì các đối thủ có thể học theo, thậm chí là tạo ra hàng nhái, hàng kém chất lượng và sau đó bán với giá rẻ hơn để thu hút khách hàng chuyển sang mua hàng của họ.

Lợi ích của chiến lược khác biệt hóa trong doanh nghiệp

Khác biệt hóa là một trong những chiến lược được áp dụng nhiều trong chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp. Những lợi ích công ty nhận được khi lựa chọn khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ của mình đó là:

Trở nên khác biệt hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường

Trong khi nền kinh tế thị trường đang có nhiều thay đổi, biến động như hiện nay, nếu doanh nghiệp không tạo được lợi thế cạnh tranh sẽ rất dễ bị bỏ lại phía sau. Thông qua việc áp dụng chiến lược khác biệt hóa, bạn có thể nhấn mạnh vào sự khác biệt hơn so với đối thủ, qua đó thu hút được tập khách hàng tiềm năng và dễ dàng đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.

Khác biệt hóa giúp cho nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của bạn trở nên khan hiếm hơn. Cùng với đó, mối đe dọa từ các đối thủ cạnh tranh sẽ giảm đáng kể. Do vậy nhờ chiến lược này, doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ và thu về nguồn lợi lớn hơn.

Tạo ra được lượng lớn khách hàng trung thành

Người tiêu dùng thường có sở thích sở hữu một sản phẩm, dịch vụ mang tính độc quyền. Khi sử dụng chiến lược khác biệt hóa cho sản phẩm, dịch vụ của mình, người tiêu dùng sẽ có ít sự lựa chọn hơn và họ sẽ không dễ dàng chấp nhận bất kỳ một nhãn hàng nào khác nếu không bị thuyết phục.

Các công ty lúc này không chỉ có được lợi thế cạnh tranh mà còn thu hút người mua và tạo ra cho mình lượng lớn khách hàng trung thành, qua đó tăng doanh thu và lợi nhuận nhanh hơn.

Ưu nhược điểm của chiến lược

Chiến lược khác biệt hóa sẽ có một số ưu nhược điểm nhất định, cụ thể như:

Ưu điểm:

Doanh nghiệp ít bị cạnh tranh bởi các đối thủ trong ngành do có số lượng lớn tập khách hàng trung thành với nhãn hiệu sản phẩm của công ty, đồng thời sản phẩm, dịch vụ doanh nghiệp khó bị bắt chước.

Chiến lược khác biệt hóa giúp doanh nghiệp tạo ra được lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của mình. Thực tế, khi người tiêu dùng đã hài lòng và yêu thích sự khác biệt của bạn, họ sẽ khó có thể chọn được sản phẩm, dịch vụ của các thương hiệu khác nữa.

Sự khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ và lòng trung thành của khách hàng có thể tạo hàng rào cản trở sự các công ty khác tìm cách gia nhập ngành. Khi đó, việc loại bỏ các đối thủ cạnh tranh mới được tiến hành dễ dàng mà không gây hao tổn lợi ích. Việc này càng giúp doanh nghiệp của bạn đứng vững được trên thị trường và có cơ hội chiếm vị trí độc quyền.

Khác biệt hóa nhấn mạnh và sự khác biệt tích cực so với đối thủ, nhờ vậy lợi ích mang đến cho khách hàng cao hơn bên cạnh khả năng cung cấp đa dạng nhu cầu của khách hàng. Qua đó doanh nghiệp có thể thu được nhiều nguồn lợi, thúc đẩy phát triển bền vững.

Nhược điểm:

Khi sử dụng chiến lược khác biệt hóa, khả năng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cũng nhanh chóng bị bắt chước bởi các đối thủ khác trong ngành.

Để thực hiện được chiến lược này, doanh nghiệp cần tập trung vào hoạt động nghiên cứu, phát triển, truyền thông, giao tiếp để cung cấp thông tin sản phẩm có tính độc đáo, khác biệt về sản phẩm, dịch vụ của mình so với đối thủ cạnh tranh.

Khi theo đuổi chiến lược khác biệt hóa, doanh nghiệp rất dễ đưa ra những sản phẩm với đặc tính cao quá mức cần thiết, dẫn đến tốn kém trong khi khách hàng không cần, không biết đến, không xem trọng hay đánh giá cao.

Chi phí để tạo ra khác biệt hóa sản phẩm, dịch vụ khá cao, nếu không cân nhắc, doanh nghiệp có thể chịu tổn thất nặng nề.

Trong các ngành kinh tế, ngành du lịch được coi là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch COVID-19. Tình hình dịch bệnh lan rộng và diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu khiến nhiều quốc gia thực hiện các biện pháp giãn cách, phong tỏa khiến việc đi lại bị thu hẹp. Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Dịch vụ lưu trú và ăn uống bị tác động nặng nề

Cơ sở du lịch lưu trú ở tất cả các quy mô và loại hình chịu tác động nặng nề từ đại dịch COVID-19. Đối với cơ sở du lịch lưu trú hạng 3-4- sao và tương đương [chiếm khoảng 16% số lượng khách sạn hạng 1- sao và 53% số buồng], lượng khách quốc tế dừng hẳn sau quý I/ nên phần lớn phải giảm giá sâu, chuyển đổi thị trường, thu hút khách nội địa và chuyên gia hoặc số ít tạm dừng kinh doanh, hoạt động cầm chừng. Các cơ sở du lịch lưu trú từ 1-2 sao và tương đương trở xuống [chiến khoảng 18% số cơ sở và 40% tổng số buồng], do đặc thù chủ yếu phục vụ khách du lịch nên hoạt động cầm chừng. Loại hình homestay ở các điểm du lịch cộng đồng miền núi phía Bắc như Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng... được nhiều khách quan tâm vào thời điểm đầu năm 2021 thì hiện tại phần lớn cũng không có khách. Hệ thống nhà ở chia sẻ hoạt động trên nền tảng công nghệ như Airbnb hầu hết tạm dừng hoạt động.

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống sụt giảm 13% trong năm 2020 và 2,7% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2021. Hơn 30 cơ sở lưu trú với 650 phòng trên cả nước nhưng công suất chỉ đại 20- 25%; một số địa bàn du lịch trọng điểm, nhiều khách sạn buộc phải đóng cửa hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2020 cả nước giảm 13% so với năm trước và giảm mạnh tại một số tỉnh, thành phố du lịch, trong đó: Khánh Hòa giảm 56,4%, Quảng Nam giảm 50,6%, Đà Nẵng giảm 35,8%, thành phố Hồ Chí Minh giảm 33,8%... Bức tranh ảm đạm tương tự cũng được ghi nhận trong 6 tháng đầu năm 2021, với mức sụt giảm 3,3%. Theo số liệu do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công bố, tính đến hết tháng 6/2021, số cơ sở lưu trú du lịch trong toàn quốc là 37 với 780 buồng; công suất phòng trung bình cả nước chỉ đạt 15%, nhiều nơi dưới 10%.

Nhiều cơ sở sau thời gian hoạt động cầm chừng phải đóng cửa. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong ngành dịch vụ lưu trú và ăn

uống năm 2020 giảm 22% và giảm tiếp 2,8% trong 6 tháng đầu năm 2021 trong bối cảnh tổng số doanh nghiệp thành lập mới trong nền kinh tế đạt mức cao trong giai đoạn 2016-2021.

Năm 2021 dự báo tiếp tục là một năm nhiều khó khăn đối với ngành du lịch thế giới chứ không riêng ở Việt Nam. Dịch bệnh diễn biến phức tạp khiến nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp hạn chế đi lại khiến khả năng phục hồi của ngành du lịch, đi kèm theo đó là dịch vụ ăn uống và lưu trú là rất thấp.

Nhận định về tình hình du lịch nước nhà năm 2021, Tổng cục Du lịch Việt Nam cho biết, mặc dù được ghi nhận là một trong những quốc gia phòng chống dịch hiệu quả nhất thế giới, ngành du lịch Việt Nam sẽ vẫn chịu tác động sâu sắc của dịch bệnh: Các khu/điểm du lịch, các di tích, điểm tham quan, vui chơi giải trí nhiều lần phải đóng cửa, doanh nghiệp du lịch ngày càng khó khăn hơn.

Để tiếp tục khắc phục khó khăn, phát triển ngành du lịch, trong năm 2021, ngành du lịch cần đồng thời triển khai nhiều nhóm giải pháp. Trong đó, du lịch tập trung thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/20217 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngành du lịch còn triển khai nhiều nhiệm vụ trọng tâm. Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch được đưa vào hoạt động. Đổi mới nhận thức, tư duy, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển du lịch, nguồn nhân lực...

Còn theo một số chuyên gia, đại dịch đã khiến cho việc đi lại giữa các quốc gia bị hạn chế tối đa và ngành du lịch gần như phụ thuộc vào khách nội địa. Tuy nhiên, ngành công nghiệp “không khói” vẫn được kỳ vọng tích cực với nhu cầu du lịch tăng cao khi dịch COVID-19 được kiểm soát, cùng với sự “chung tay” của nhiều thương hiệu vận hành quốc tế nổi tiếng. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới [UNWTO], du lịch toàn cầu có thể phục hồi hoàn toàn vào năm 2024, trong đó miễn dịch cộng đồng được xem là yếu tố then chốt.

an toàn lao động được duy trì một cách bền vững. Huy động lực lượng chuyên trách để định hình, xây dựng, thực hiện và giám sát chiến lược trở lại nơi làm việc chính là điểm mấu chốt. Đồng thời, PwC cũng khuyến khích doanh nghiệp đánh giá bốn lĩnh vực sau trước khi đưa lực lượng lao động trở lại làm việc: Sức khỏe và An toàn, Loại hình công việc, Tài chính [Chi phí và doanh thu] và Nhu cầu của nhân viên.

Chậm trễ vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển và đường hàng không cũng như gián đoạn chuỗi cung ứng là những vấn đề phổ biến kể từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra.

Theo tạp chí Diplomat, gần 18 tháng kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, với tỷ lệ tiêm chủng ngày càng tăng trên toàn cầu, "cuộc sống bình thường" trên đất liền có thể trở lại trong vòng vài tháng tới. Tuy nhiên, trên biển, đó là một câu chuyện hoàn toàn khác.

Sự xáo trộn trong ngành kho vận [logistics] toàn cầu ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đối với các nền kinh tế ở châu Phi. Mặc dù châu Phi chỉ chiếm 3% thương mại toàn cầu, nhưng đây là khu vực phụ thuộc nhiều nhất vào ngoại thương, với khoảng 85% tổng thương mại của châu lục này là bên ngoài khu vực.

Chậm trễ vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển và đường hàng không cũng như gián đoạn chuỗi cung ứng là những vấn đề phổ biến kể từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra. Việc đóng cửa nhà máy, hạn chế công nhân và các mức độ phong tỏa khác nhau đã khiến hoạt động sản xuất và phân phối các loại hàng hóa bị giảm sút, trong khi nhu cầu thiết bị và hàng hóa vật tư y tế gia tăng. Nhìn chung, hoạt động vận tải biển toàn cầu giảm khoảng 10% trong năm 2020.

Sự bế tắc của các tuyến đường thương mại bắt nguồn từ Trung Quốc, chiếm khoảng 16% tổng thương mại toàn cầu, đã bị thách thức nghiêm trọng. Đầu năm 2020, Trung Quốc bắt đầu giảm hoạt động ngoại thương.

Tuy nhiên, sau khi kiểm soát được đại dịch COVID-19, Trung Quốc đã có sự bùng nổ xuất khẩu thiết bị y tế cũng như các hàng hóa khác. Tăng trưởng xuất khẩu vẫn tiếp tục diễn ra, nhưng với việc các nước khác đóng cửa nền kinh tế và do đó ít hàng hóa nhập khẩu hơn, khó tìm kiếm container nhằm duy trì dòng chảy hàng hóa.

Trung Quốc đưa ra các yêu cầu quản lý dịch COVID-19 rất nghiêm ngặt đối với việc cách ly các lao động trên biển so với thông lệ tiêu chuẩn ở những nơi khác. Ngày 10/8, một ca nhiễm COVID-19 được xác định sau khi xét nghiệm một công nhân không có triệu chứng tại cảng Ningbo Zhoushan ở phía Đông Trung Quốc, khiến giới chức phải áp dụng các biện pháp cách ly nghiêm ngặt và đình chỉ tất cả các dịch vụ tại cảng này vào ngày hôm sau.

Điều này đã kéo dài thêm tình trạng tồn đọng hàng hóa vốn đã trở nên rất căng thẳng. Vận tải hàng không từ Trung Quốc cũng tăng giá và lo ngại công suất giảm sút do các ca lây nhiễm COVID-19 của nhân viên sân bay Nam Kinh. Tất cả những vấn đề này đã làm gia tăng áp lực đối với các tuyến đường vận tải biển.

Bất ổn về môi trường toàn cầu cũng là vấn đề đáng lo ngại. Các điều kiện thời tiết khắc nghiệt do biến đổi khí hậu xuất hiện gần đây ở nhiều quốc gia đã làm gián đoạn lịch trình và ảnh hưởng đến dòng chảy lưu chuyển hàng hóa thông qua các cảng vốn đã phải chịu nhiều áp lực. Ngoài ra, chưa kể những diễn biến bất ngờ không thể lường trước được, ví dụ như sự tắc nghẽn kênh đào Suez vào đầu năm 2021.

Để giải quyết vấn đề này, các công ty vận tải biển đã điều chuyển container từ các tuyến thương mại ít sinh lời hơn để ưu tiên các tuyến có lợi nhuận cao hơn, ví dụ như tuyến đường từ Trung Quốc và châu Á sang châu Âu và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ngay cả Hoa Kỳ cũng đang gặp phải tình trạng ứ đọng hàng hóa tại các cảng trong mùa cao điểm. Chu kỳ vận chuyển container toàn cầu chậm lại được cho là do dòng chảy xuất khẩu của Trung Quốc sang các cảng Đông Phi giảm.

Một sáng kiến khác nhằm khắc phục vấn đề là việc mở cửa trung tâm vận chuyển container rỗng tại cảng Thượng Hải, nhằm cải thiện tình trạng thiếu container trong khu vực bằng cách tăng tốc độ xử lý các container rỗng để tái sử dụng. Tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến các nền kinh tế châu Phi.

Thực tế, toàn bộ châu Phi chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong "miếng bánh" kinh doanh dịch vụ logistics toàn cầu - chỉ có 3 cảng tại châu Phi có mặt trong danh sách 100 cảng container hàng đầu thế giới năm 2020 và không quốc gia châu Phi nào nắm giữ hơn 1% quyền sở hữu các dịch vụ vận chuyển toàn cầu [vị trí đầu bảng của châu Phi thuộc về Nigeria với 0,3%]. Những điều kiện này khiến châu Phi khó có thể tạo ra một sự thay đổi trong lĩnh vực này.

Trung Quốc là đối tác thương mại song phương lớn nhất của châu Phi và có những dự đoán rằng kim ngạch thương mại giữa hai bên sẽ tiếp tục tăng theo cả hai chiều. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại giữa châu Phi và Trung Quốc lại mang tính toàn cầu. Đại dịch COVID-19 đã bộc lộ rằng chính những yếu tố toàn cầu này có thể quyết định triển vọng tăng trưởng ở các nước châu Phi hơn là các chiến lược kinh tế của những quốc gia thuộc châu lục này.

Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO] và Tổ chức Hàng hải Quốc tế [IMO] nên thảo luận về một bộ quy định mới - ít nhất là tạm thời - nhằm thúc đẩy phân phối hàng hóa đến các nước châu Phi hoặc ở quy mô lớn hơn là các nước có thu nhập trung bình và thấp hơn, cũng như hỗ trợ sự phục hồi kinh tế. Điều này có thể được xây dựng dựa trên tiền lệ được thiết lập bởi thỏa thuận chiến lược của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc [UNICEF] với các hãng vận tải lớn nhằm ưu tiên đặt lịch vận chuyển trước tất cả các nguồn cung cấp liên quan đến sáng kiến phân phối vaccine toàn cầu COVAX để giảm thiểu tác động của đại dịch. Thỏa thuận này có thể được mở rộng cho nhiều loại hàng hóa và nhiều bên tham gia hơn, bao gồm cả Chính phủ Trung Quốc đối với các quy tắc quản lý dịch COVID-19.

Nếu không có sự can thiệp như vậy, có nguy cơ các xu hướng thương mại hiện nay và các hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu có thể gây thiệt hại nhiều hơn là đem lại lợi ích cho các nền kinh tế châu Phi trong thời điểm nhiều thách thức này.

Tác động của đại dịch COVID-19:

Nhu cầu hàng hóa biến động về khối lượng, chủng loại và tuyến đường trong thời gian diễn ra đại dịch COVID-19 đã làm thay đổi đáng kể bối cảnh vận chuyển xuyên Thái Bình Dương. Dữ liệu mới từ Alphaliner cho thấy những thay đổi lớn trong tuyến vận chuyển container giữa thị trường Châu Á-Hoa Kỳ.

Hiệu ứng của COVID-19 đối với việc định giá vận chuyển hàng hóa xuyên Thái Bình Dương vẫn chưa kết thúc và giá cước vận tải vẫn đang tăng so với năm 2021.

Trong khi đó, năng lực vận chuyển container thực ra đã cao hơn nhiều so với thời kỳ trước đại dịch. Công suất tiếp tục tăng, với nhiều dịch vụ vận chuyển mới tập trung vào tuyến châu Á- Bờ Đông hơn là Châu Á- Bờ Tây.

Sự cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ đang gia tăng, với nhiều hãng hơn về tổng thể và thị phần kiểm soát bởi ba liên minh toàn cầu lớn đang giảm đi. Bảng xếp hạng thị phần tuyến xuyên Thái Bình Dương khác biệt vì xu hướng nhu cầu thay đổi trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, nhiều hãng vận chuyển cũng thúc đẩy các chiến lược kinh doanh mới.

MSC và Maersk cho đến nay là những hãng vận chuyển phát triển nhanh nhất trong lĩnh vực thương mại container đường biển.

Tổng công suất xuyên Thái Bình Dương tăng 24% so với cùng kỳ năm trước, gồm 702 tàu container với tổng công suất là 5,75 triệu đơn vị tương đương 20 feet [TEU]. Vận chuyển trước đó đã tăng 24,7% trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 4 năm 2021.

Thị phần xuyên Thái Bình Dương của các Liên minh giảm

Trở lại giữa năm 2020, khi Hoa Kỳ sắp thoát khỏi tình trạng thắt chặt kiểm soát dịch bệnh đầu tiên, Cosco là hãng vận tải dẫn đầu trên tuyến xuyên Thái Bình Dương. Maersk đứng thứ tư vào thời điểm đó, với công suất ít hơn gần 30% so với Cosco. MSC đã vươn từ vị trí số 6 lên vị trí số 3 trong các hãng vận tải trên tuyến xuyên Thái Bình Dương.

Trên tuyến Châu Á-Hoa Kỳ giá cước theo hợp đồng năm được dự đoán sẽ cao hơn nhiều vào năm 2022 so với năm 2021. Chỉ số nhập khẩu của Hoa Kỳ do Xeneta tính toán vào tháng 3/2022 đã tăng 99% so với cùng kỳ năm 2021. Gary Friedman, Giám đốc điều hành của Restoration Hardware [NYSE: RH], cho giá hợp đồng của RH cho năm 2022 thậm chí còn tăng nhiều hơn so với năm 2021, trong khi trước đó vào năm ngoái, giá cước theo hợp đồng của công đã tăng gấp đôi.

Trên thị trường giao ngay, một số chỉ số cho thấy tỷ lệ điều tiết, nhưng vẫn ở mức cao hơn nhiều so với năm ngoái.

Chỉ số Drewry’s Shanghai-Los Angeles vào tuần đầu tháng 4/2021 là 8 USD cho mỗi đơn vị tương đương 40 foot [không bao gồm phí bảo hiểm], mức thấp nhất kể từ đầu tháng 7 năm 2021 và giảm 14% so với mức giá vào cuối năm ngoái, nhưng con số này tăng 112% so với cùng kỳ năm ngoái và hơn gấp ba lần trước COVID-19.

Để giá cước vận tải xuyên Thái Bình Dương trung bình năm 2022 giảm so với trung bình năm 2021, thì giá cước giao ngay sẽ sớm giảm xuống dưới một nửa mức hiện tại và phải tiếp tục giảm trong thời gian còn lại của năm nay. Sự sụt giảm giá cước giao ngay sẽ phải đủ lớn để bù đắp mức giá hợp đồng cao hơn mà các hãng vận chuyển hàng đầu như Maersk đã thương lượng.

Phân tích của ban cố vấn Nhà trắng về tác động của COVID-19 và xu hướng chuỗi cung ứng năm 2022:

Như đã đề cập ở trên, năm 2022, Chính phủ Mỹ tập trung chính trị cao độ vào các biện pháp bảo vệ chống độc quyền trong vận chuyển container nói chung và vai trò của các liên minh nói riêng [mặc dù các thành viên vận tải cá nhân của các liên minh định giá cước vận chuyển của họ riêng].

Đại dịch COVID-19 và các hiệu ứng đã làm chao đảo các chuỗi cung ứng trên khắp thế giới, góp phần làm chậm trễ vận chuyển hàng hóa, thiếu hụt sản phẩm và lạm phát đang tăng nhanh nhất trong nhiều thập kỷ.

Nhưng trong một báo cáo được công bố bởi các nhà kinh tế của Nhà Trắng lập luận rằng đại dịch bộc lộ các lỗ hổng trong chuỗi cung ứng, nhưng họ cảnh báo rằng các vấn đề sẽ không biến mất khi đại dịch kết thúc.

Theo Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Nhà Trắng, mặc dù các chuỗi cung ứng hiện đại đã giúp giảm giá tiêu dùng đối với nhiều loại hàng hóa, nhưng cũng lại dễ dàng bị phá vỡ bởi các cú sốc. Biến đổi khí hậu với tần suất ngày càng tăng của các thảm họa thiên nhiên sẽ khiến những gián đoạn trong tương lai không thể tránh khỏi.

Các nhà kinh tế của Nhà Trắng đã phân tích chuỗi cung ứng như một phần của Báo cáo Kinh tế của Tổng thống. Tài liệu thường niên dài hơn 400 trang trong năm nay đưa ra một số đề xuất chính sách mới, nhưng phác thảo quan điểm của chính quyền về các vấn đề kinh tế quan trọng mà đất nước phải đối mặt và cách giải quyết.

Báo cáo dành một trong bảy chương cho chuỗi cung ứng-chủ đề hiện đã “đi vào các cuộc trò chuyện trên bàn ăn của mỗi gia đình” vào năm 2021. Trong những thập kỷ gần đây, các nhà sản xuất Hoa Kỳ ngày càng phụ thuộc vào các bộ phận được sản xuất ở các nước có chi phí thấp, đặc biệt là Trung Quốc, một hoạt động được gọi là sản xuất gia công. Đồng thời, các công ty đã áp dụng chiến lược sản xuất đúng lúc nhằm giảm thiểu các bộ phận và nguyên vật liệu mà họ giữ trong kho, nhằm cố gắng tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông. Các tác giả cho rằng kết quả là chuỗi cung ứng hiệu quả nhưng dễ bị phá vỡ khi đối mặt với đại dịch, chiến tranh hoặc thiên tai.

Do phụ thuộc vào thuê ngoài trong khi các hoạt động đầu tư cho việc tạo lập khả năng phục hồi chưa thích đáng nên nhiều chuỗi cung ứng đã trở nên phức tạp và mong manh, nhiều trong số đó phụ thuộc vào các biện pháp tài chính hoặc dễ ảnh hưởng đến những chuỗi cung ứng hàng hóa khác.

Trong báo cáo, chính quyền đã trích dẫn nỗ lực của họ để xác định những điểm yếu trong chuỗi cung ứng đối với các sản phẩm chủ chốt như chất bán dẫn, pin xe điện, một số khoáng sản và sản phẩm dược phẩm, đồng thời để thúc đẩy sản xuất của Mỹ thông qua việc mở rộng mua sắm liên bang và đầu tư khác.

Báo cáo cho biết: “Khu vực công có thể là đối tác của khu vực tư nhân hơn là đối thủ cạnh tranh trong quá trình phục hồi này”

Về hợp tác quốc tế, theo Sarah Bianchi, phó đại diện thương mại Hoa Kỳ, các nhà đàm phán thương mại đã làm việc với các quan chức ở Canada, Mexico, Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh và các nơi khác để xác định và giải quyết các nút thắt trong chuỗi cung ứng.

Chủ Đề