Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch giải phóng

     Cùng thời gian, Bộ tư lệnh Quân đoàn sử dụng Trung đoàn 165 thuộc Sư đoàn 312 có 10 xe tăng yểm trợ và 2 đại đội bộ đội địa phương phối hợp, tiến công căn cứ Phú Lợi. Sau đó tiếp tục đánh chiếm thị xã và tiểu khu Bình Dương, bảo đảm hành lang cho lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn tiến vào thành phố.

     Được Sư đoàn 312 tạo bàn đạp thuận lợi dọc Quốc lộ số 13, đội hình thọc sâu Sư đoàn 320B đập tan hệ thống phòng ngự chi khu quân sự Lái Thiêu, mở toang “cánh cửa cứng” cuối cùng trên hướng Bắc tiến vào nội đô Sài Gòn. Rạng sáng ngày 30-4, Trung đoàn 27 [Sư đoàn 320B] được tăng cường đại đội 3 xe tăng thuộc Lữ đoàn 202 phát triển tiến công cầu Bình Phước và bộ tư lệnh các binh chủng địch theo kế hoạch. Nhưng khi đến giáp cầu Vĩnh Bình, Trung đoàn 27 bị lực lượng địch phòng thủ ở đây chặn đánh quyết liệt. Cuộc chiến đấu giành giật cầu Vĩnh Bình diễn ra vô cùng ác liệt. Đến 8 giờ 30 phút, Trung đoàn 27 làm chủ cầu Vĩnh Bình, sau đó được nhân dân địa phương dẫn đường, đánh chiếm cầu Bình Phước và bộ tư lệnh các binh chủng ở Gò Vấp.

     Mũi thọc sâu chủ yếu vào nội đô do Trung đoàn 48 [Sư đoàn 320B] đảm nhiệm đột phá tuyến phòng ngự địch chốt giữ cầu Bình Triệu, thọc sâu theo đường Bạch Đằng, Chi Lăng đánh vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.

     Tại bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, trong khi Sư đoàn 10 [Quân đoàn 3] đánh chiếm cổng số 1 và cắm cờ trên nóc sở chỉ huy đại bản doanh thì Trung đoàn 48 cũng đánh chiếm được cổng số 2, khu điện toán, khu trung tâm truyền tin và cắm cờ chiến thắng lên nóc nhà trung tâm hành quân.

     Ở hướng Tây Nam, đêm ngày 29-4, lực lượng đột kích chủ yếu của Đoàn 232 do Sư đoàn 9 đảm nhiệm tiến vào nội thành Sài Gòn theo ba trục chính. 10 giờ 30 phút, ngày 30-4, sau khi tiêu diệt các trung đoàn đối phương cản đường, lực lượng thọc sâu Sư đoàn 9 [chủ yếu là Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2] đã vây chặt biệt khu Thủ đô. Không còn đường thoát, tướng Lâm Văn Phát, tư lệnh biệt khu thủ đô đã dẫn thuộc cấp ra đầu hàng và kêu gọi sĩ quan, binh lính thuộc quyền hạ vũ khí.

     Trên hướng tiến công quan trọng Đông - Đông Nam, trưa ngày 29-4, nhận được chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh chiến dịch đã mật lệnh cho Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 “tiến công vào nội đô Sài Gòn” từ 16 giờ ngày 29-4-1975 [sớm hơn 12 giờ so với các hướng khác]. Chấp hành mệnh lệnh, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 và Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 tổ chức thực hiện ngay.

     14 giờ ngày 29-4, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 đánh chiếm các mục tiêu còn lại ở khu vực Nhơn Trạch, bến phà Cát Lái [phía bắc] và thành Tuy Hạ. Rạng sáng ngày 30-4, được pháo binh [chủ yếu là pháo 85mm bắn ngắm trực tiếp] và xe tăng yểm trợ, Sư đoàn vượt sông Đồng Nai, đánh chiếm căn cứ hải quân Cát Lái, sau đó phát triển vào nội thành đánh chiếm bộ tư lệnh hải quân địch, phát động và hỗ trợ cho nhân dân Quận 9 nổi dậy giành quyền làm chủ.

     Mũi đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 do Bộ tư lệnh tiền phương Quân đoàn trực tiếp chỉ huy. Số đầu xe hỗn hợp của lực lượng thọc sâu lên tới 400 chiếc [trong đó có khoảng 1/3 xe pháo, đạn quân đoàn thu hồi được trong các trận chiến đấu hoặc trên dọc đường tháo chạy địch bỏ lại]. 5 giờ sáng ngày 30-4, đội hình thọc sâu hành tiến trên quãng đường xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn dài gần 4km cùng các cánh quân trên bốn hướng chiến dịch đồng loạt tiến công vào nội đô Sài Gòn.

     Dọc đường hành tiến, đội hình thọc sâu Quân đoàn 2 quét sạch các đồn, bốt, tuyến phòng ngự chốt chặn của đối phương.

     Cũng trong buổi sáng 30-4, tại khu vực thành phố Biên Hòa, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 cho Sư đoàn 6 [được tăng cường Trung đoàn 3 - Sư đoàn 341], tiến công đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 3 địch. Cùng lúc, Sư đoàn 341 đánh chiếm khu vực Hốc Bà Thức và phát triển vào Thủ Đức. 10 giờ, Trung đoàn 209 đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 18, khu biệt động quân. Khoảng hơn 11 giờ, Trung đoàn 3 vượt cầu Ghềnh, tiến vào thành phố. Sư đoàn 7 [được tăng cường Trung đoàn 52, Quân khu 5] và các đơn vị binh chủng phối hợp đánh thọc sâu, tổ chức đánh địch ở ngã ba Tam Hiệp. Sau khi tiêu diệt địch ở Tam Hiệp, tổ chức vượt cầu Ghềnh, cầu yếu, xe tăng, thiết giáp không thể qua được, nên đội hình thọc sâu phải chuyển hướng sang cầu xa lộ Đồng Nai theo hướng Quân đoàn 2 tiến vào thành phố.

     Đội hình thọc sâu Quân đoàn 2 sau khi đè bẹp một số mục tiêu quan trọng ở quận Thủ Đức, đã tiến sát cầu Sài Gòn. Tại đây ta gặp sự phản kích dữ dội của địch. Nhưng trước sự phối hợp hỏa lực hiệu quả và các mũi tiến công của quân ta, địch phải bỏ vũ khí tháo chạy.

     9 giờ, lực lượng đi đầu binh đoàn đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 tiếp tục vượt cầu Sài Gòn, tiến về phía Dinh Độc Lập. Tại phía nam cầu, Phó tư lệnh Quân đoàn 2 chỉ thị cho Lữ đoàn xe tăng 203 điều chỉnh Tiểu đoàn 2 thiết giáp dàn đội hình, giữ cự ly, bám Tiểu đoàn 1 xe tăng đi đầu; chỉ thị cho Ban chỉ huy tiền phương Trung đoàn 66 do Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ phụ trách chỉ huy cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 bám sát đội hình xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập, Tiểu đoàn 8 tiến vào đánh chiếm Đài phát thanh.

     Vượt qua sự chống trả quyết liệt ở cầu Thị Nghè, lực lượng thọc sâu cơ động dọc theo tường rào Thảo Cầm Viên. Tiểu đoàn 1 xe tăng do Đại đội 4 dẫn đầu, tiếp cận cổng chính Dinh Độc Lập. Xe tăng đi đầu mang số hiệu 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy quay nòng pháo, nhấn ga, húc vào cánh cổng phụ bên trái [từ ngoài vào]. Do đột ngột gặp sức cản lớn nên xe chết máy. Chiếc xe tăng mang số hiệu 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy đi sau vượt lên, lao vào húc đổ cánh cổng chính của Dinh Độc Lập...

Xe tăng của Lữ đoàn tăng - Thiết giáp 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập và Xe tăng quân giải phóng chiếm phủ Tổng thống ngụy, trưa 30-4-1975.

Trưa ngày 30/4/1975, hai chiếc xe tăng mang số hiệu 843 và 390 thuộc biên chế của Lữ đoàn 203 [Binh chủng Tăng - Thiết giáp] hùng dũng tiến lên, húc đổ cánh cổng sắt Dinh Độc Lập. Trung úy Bùi Quang Thận, Đại đội trưởng Đại đội xe tăng 2, từ xe tăng 843 tiến lên, cắm lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc Dinh. Cùng lúc ấy, các chiến sỹ của Lữ đoàn xe tăng 203, Trung đoàn bộ binh 66 - lực lượng xung kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và lực lượng biệt động thành Sài Gòn tiến vào Dinh. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh và toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện.

 

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Ảnh: Tư Liệu

Để có được thắng lợi vĩ đại ấy, dân tộc ta đã trải qua một cuộc chiến tranh trường kỳ và gian khổ suốt 21 năm. Hàng triệu cán bộ, chiến sỹ và đồng bào đã anh dũng hy sinh. Từ những nguồn tư liệu lịch sử, xin được nhắc lại một số diễn biến chính của Chiến dịch lịch sử này.

Mùa Xuân năm 1975, sau Chiến dịch Tây Nguyên [từ 4/3 đến 3/4/1975], Chiến dịch Huế - Đà Nẵng [từ 5/3 đến 2/4/1975] thắng lợi, ta đã giải phóng một vùng rộng lớn, gồm các tỉnh Tây Nguyên và toàn bộ vùng duyên hải miền Trung. Địch mất toàn bộ Quân khu 1 và Quân khu 2. Một nửa binh lực của quân ngụy Sài Gòn đã bị tiêu diệt. Tuy nhiên, địch vẫn ra sức tổ chức lực lượng, tăng cường phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể mặc cả với ta trên chiến trường. Chúng nhanh chóng tổ chức các tuyến phòng ngự từ xa, như các tuyến: Phan Rang, Xuân Lộc và tuyến phòng ngự trực tiếp bảo vệ thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Ngày 18/4, ta tiến công Phan Rang, đập tan tuyến phòng ngự của địch, bắt sống Trung tướng Tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi. Ngày 20/4, trước sức tiến công của ta, Sư đoàn 18 ngụy tháo chạy. Xuân Lộc thất thủ. Các tuyến phòng ngự từ xa của địch bị phá vỡ, buộc chúng phải co về phòng ngự trực tiếp thành phố Sài Gòn với ba tuyến chính: vòng ngoài [bán kính 25 - 30 km], vòng ven và nội đô.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với quyết tâm giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam trước mùa mưa. Tất cả các lực lượng chiến lược được huy động cho chiến dịch này.

Ngày 8/4/1975, tại Lộc Ninh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Sau đó, Chiến dịch được Bộ Chính trị quyết định đổi tên thành “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh; các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh và Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh. Lực lượng ta được triển khai thành 5 cánh quân, với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn theo tinh thần chỉ đạo: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng”.

Chiều 26/4, ta nổ súng mở màn Chiến dịch. Từ 5 hướng, các quân đoàn đồng loạt tiến công Sài Gòn. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch, đêm 29, rạng sáng ngày 30/4/1975, các binh đoàn chủ lực trên từng hướng đồng loạt tiến công vào nội đô, đánh chiếm các mục tiêu then chốt đã được phân công.

Trên hướng Tây Bắc, 5 giờ ngày 30/4, Quân đoàn 3 với lực lượng đột kích thọc sâu, chủ yếu là Sư đoàn 10, được pháo binh chi viện, bắn phá liên tục vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Bộ Tư lệnh quân dù, Bộ Tư lệnh thiết giáp, Bộ Tư lệnh không quân… Sau đó tiến công bằng cơ giới, đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Đến trưa 30/4, Trung đoàn 24 [Sư đoàn 10] đã làm chủ hoàn toàn sân bay Tân Sơn Nhất, Trung đoàn 28 [Sư đoàn 10] chiếm Bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.

Trên hướng Bắc, suốt đêm 29 rạng sáng ngày 30/4, Quân đoàn 1 tiến công, bao vây, tiêu diệt địch tại cụm cứ điểm Lai Khê, tiến công căn cứ Phú Lợi, đánh chiếm thị xã và tiểu khu Bình Dương, đập tan hệ thống phòng ngự chi khu quân sự Lái Thiêu, mở toang cánh cửa cuối cùng trên hướng Bắc tiến vào nội đô Sài Gòn. Rạng sáng ngày 30/4 các đơn vị của Quân đoàn tiến công cầu Bình Phước, cầu Vĩnh Bình, đánh chiếm Gò Vấp, sau đó thực hành thọc sâu theo đường Bạch Đằng, Chi Lăng đánh vào Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn.

Trên hướng Tây Nam, đêm ngày 29/4, lực lượng đột kích chủ yếu của Đoàn 232 do Sư đoàn 9 đảm nhiệm tiến vào nội thành Sài Gòn theo 3 trục chính. 10 giờ 30 phút, ngày 30/4, lực lượng thọc sâu Sư đoàn 9 đã vây chặt biệt khu Thủ đô. Tướng Lâm Văn Phát, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô ngụy Sài Gòn đã đầu hàng và kêu gọi sĩ quan, binh lính thuộc quyền hạ vũ khí.

Trên hướng tiến công quan trọng Đông - Đông Nam, trưa ngày 29/4, nhận được chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã lệnh cho Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 “tiến công vào nội đô Sài Gòn” từ 16 giờ ngày 29/4/1975 [sớm hơn 12 giờ so với các hướng khác].


Nhân dân Sài Gòn đổ ra đường hoan hô bộ đội giải phóng.

Ảnh: Tư Liệu

14 giờ ngày 29/4, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2 đánh chiếm các mục tiêu còn lại ở khu vực Nhơn Trạch, bến phà Cát Lái và thành Tuy Hạ. Rạng sáng ngày 30/4, được pháo binh và xe tăng yểm trợ, Sư đoàn vượt sông Đồng Nai, đánh chiếm căn cứ hải quân Cát Lái, sau đó phát triển vào nội thành đánh chiếm Bộ Tư lệnh hải quân địch, phát động và hỗ trợ cho nhân dân quận 9 nổi dậy giành quyền làm chủ.

5 giờ sáng ngày 30/4, mũi đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 do Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn trực tiếp chỉ huy, gồm hơn 400 xe cơ giới, dẫn đầu là xe tăng và xe thiết giáp, theo xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn, tiến công vào nội đô Sài Gòn. Dọc đường tiến công, các đơn vị trong đội hình vừa đi vừa đánh, quét sạch các đồn, bốt, tuyến phòng ngự chốt chặn của đối phương.

Cũng trong sáng 30/4, tại khu vực thành phố Biên Hòa, Quân đoàn 4 tiến công vào Thủ Đức, ngã ba Tam Hiệp rồi chuyển sang cầu xa lộ Đồng Nai tiến vào thành phố.

Đội hình thọc sâu Quân đoàn 2 sau khi đè bẹp một số mục tiêu quan trọng ở quận Thủ Đức, đã tiến sát cầu Sài Gòn. Tại đây ta gặp sự phản kích dữ dội của địch. Nhưng trước sự phối hợp hỏa lực hiệu quả và các mũi tiến công của quân ta, địch phải bỏ vũ khí tháo chạy.


Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cánh cổng sắt của Dinh Độc lập trưa ngày 30/4/1975.

Ảnh: Tư Liệu

9 giờ, lực lượng đi đầu binh đoàn đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 tiếp tục vượt cầu Sài Gòn, tiến về phía Dinh Độc Lập. Phía nam cầu, Phó Tư lệnh Quân đoàn 2 chỉ thị cho cán bộ Lữ đoàn xe tăng 203 điều chỉnh Tiểu đoàn 2 thiết giáp dàn đội hình, giữ cự ly, bám Tiểu đoàn 1 xe tăng đi đầu; chỉ thị cho Ban chỉ huy tiền phương Trung đoàn 66 bám sát đội hình xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập và đánh chiếm Đài phát thanh.

Vượt qua sự chống trả quyết liệt ở cầu Thị Nghè, lực lượng thọc sâu cơ động dọc theo tường rào Thảo Cầm Viên. Tiểu đoàn 1 xe tăng do Đại đội 4 dẫn đầu, tiếp cận cổng chính Dinh Độc Lập. Xe tăng đi đầu mang số hiệu 843 do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy húc vào cánh cổng, nhưng xe bị chết máy, ngay lập tức xe tăng mang số hiệu 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy đi sau vượt lên, lao vào húc đổ cánh cổng chính cửa Dinh Độc Lập. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ Giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Ngay sau đó, Tổng thống Dương Văn Minh lên Đài phát thanh Sài Gòn đọc lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện quân giải phóng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh là mốc son chói lọi, đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Nguyễn Vũ Điền

[Hội Khoa học lịch sử tỉnh Sơn La]

Video liên quan

Chủ Đề