Cách mạng tân hợi bùng nổ đầu tiên ở hà nội, hoàn kiếm, hà nội

Mục lục

Bối cảnhSửa đổi

Từ Hi Thái hậu [1835–1908], là hiện thân phe bảo thủ trong triều đình nhà Thanh, bà nắm quyền lực triều chính trong vòng 47 năm, và đã ngăn chặn nỗ lực Bách nhật duy tân của vua Quang Tự [1871–1908].
Sau thất bại Bách nhật duy tân năm 1898, cố vấn vua Quang Tự là Khang Hữu Vi [trái, 1858–1927] và Lương Khải Siêu [1873–1929] đã đi lưu vong, trong khi Đàm Tự Đồng [phải, 1865–1898] bị xử tử. Tại Canada, Khang và Lương thành lập Bảo Hoàng Hội [保皇會] để thúc đẩy chế độ quân chủ lập hiến tại Trung Quốc. Năm 1900, hội ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền trung Trung Quốc để giải cứu Quang Tự, và sau đó bị chính quyền Bắc Kinh đàn áp. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911-1912, Lương trở thành Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Hoa Dân Quốc. Khang vẫn tiếp tục ủng hộ bảo hoàng và hỗ trợ phục vị hoàng đế Trung Hoa [Đại Thanh] cho Thanh Đế cuối cùng Phổ Nghi năm 1917 trước khi bị lật đổ trở lại bởi sự phản đối gay gắt của các thế lực quân phiệt cùng toàn bộ nhân dân Trung Quốc.

Sau thất bại đầu tiên trước phương Tây trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất năm 1842, triều đình nhà Thanh đã nỗ lực ngăn chặn sự xâm phạm của người nước ngoài vào Trung Quốc. Những nỗ lực cải cách và điều chỉnh miễn cưỡng sự quản lý truyền thống đã bị triều đình cực bảo thủ ngăn chặn, vốn không muốn có quá nhiều quyền lực bị thay đổi. Sau thất bại Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai năm 1860, nhà Thanh đã cố gắng hiện đại hóa bằng cách áp dụng một số công nghệ phương Tây thông qua Phong trào Tự cường [洋務運動] từ năm 1861.[4] Trong các cuộc chiến chống Thái Bình Thiên Quốc [1851–64], Niệp [1851–68], Vân Nam [1856–68] và Tây Bắc [1862–77], quân đội đế quốc truyền thống tỏ ra thiếu khả năng và triều đình đã dựa vào quân đội địa phương.[5] Năm 1895, Trung Quốc phải chịu một thất bại khác trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[6] Điều này chứng tỏ rằng xã hội phong kiến ​​truyền thống Trung Quốc cũng cần phải được hiện đại hóa nếu những tiến bộ công nghệ và thương mại thành công.

Năm 1898 vua Quang Tự được các nhà cải cách lúc đó như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cho một cuộc cải cách mạnh mẽ trong giáo dục, quân sự và kinh tế theo Bách nhật duy tân.[6] Cuộc cải cách đột ngột bị ngăn chặn bởi phe bảo thủ do Từ Hi Thái hậu lãnh đạo.[7] Vua Quang Tự, là con rối phụ thuộc vào Từ Hi, bị trục xuất khỏi cung và quản thúc tháng 6/1898.[5] Các nhà cải cách Khang và Lương buộc phải sống lưu vong. Khi ở Canada, vào tháng 6 năm 1899, họ đã cố gắng thành lập Bảo Hoàng Hội trong nỗ lực phục vị hoàng đế.[5] Từ Hi Thái hậu là người kiểm soát chính nhà Thanh từ thời điểm này. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn thúc đẩy Liên quân bát quốc tấn công Bắc Kinh năm 1900 và sự áp đặt các hiệp ước bất bình đẳng, chia cắt hầu hết lãnh thổ, tạo ra các tô giới và đặc quyền thương mại. Dưới áp lực bên trong và bên ngoài, triều đình nhà Thanh bắt đầu áp dụng một số cải cách. Nhà Thanh quản lý để duy trì sự độc tài trong quyền lực chính trị bằng các cuộc đàn áp, thường rất tàn bạo, với tất cả các cuộc nổi loạn trong nước. Những người bất đồng chính kiến ​​chỉ có thể hoạt động trong các đoàn thể bí mật và các tổ chức ngầm, trong các tô giới hoặc lưu vong ở nước ngoài.

Theo suy nghĩ của những người Hán đương thời [tuyệt đại đa số người Trung Quốc], thì nhà Thanh là một chính quyền do ngoại tộc [Mãn Châu] làm chủ từ năm 1644, vừa hèn yếu thối nát, vừa ngăn trở đất nước phát triển theo đường lối tư bản.

Tổ chức Cách mạngSửa đổi

Giai đoạn đầuSửa đổi

Có nhiều nhà cách mạng và các nhóm muốn lật đổ chính quyền nhà Thanh để tái lập chính quyền do người Hán lãnh đạo. Các tổ chức cách mạng đầu tiên được thành lập bên ngoài Trung Quốc, như Phụ Nhân Văn xã [輔仁文社] do Dương Cù Vân, thành lập tại Hồng Kông năm 1890. Văn xã gồm 15 thành viên, bao gồm Tạ Toản Thái, người đã châm biếm chính trị "Tình hình Viễn Đông", một mạn họa đầu tiên của Trung Quốc, và sau này trở thành một trong những người sáng lập cốt lõi của Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng [南華早報].[8]

Tôn Dật Tiên tại Luân Đôn

Tôn Dật Tiên thành lập Hưng Trung Hội [興中會] tại Honolulu năm 1894 với mục đích chính là gây quỹ cho các cuộc cách mạng.[9] Hai tổ chức đã sát nhập năm 1894.[10]

Các nhóm nhỏSửa đổi

Hoa hưng Hội được thành lập năm 1904 với các nhân vật nổi tiếng như Hoàng Hưng, Chương Sĩ Chiêu, Trần Thiên Hoa và Tống Giáo Nhân, cùng hơn 100 người khác. Hội có khẩu hiệu là "Chiếm cứ một tỉnh, các tỉnh khác hưởng ứng"nhằm đánh đổ Mãn Thanh vốn cướp nước của người Hán từ 1644 đến lúc đó nên mục tiêu là quét sạch phong kiến quân chủ Mãn Châu để đi thành lập 1 nền Cộng hòa dân quốc Trung Hoa cho người Hán [雄踞一省,与各省纷起].[11]

Quang phục Hội [光復會] thành lập năm 1904, tại Thượng Hải, bởi Thái Nguyên Bồi. Các nhân vật nổi tiếng gồm Chương Bỉnh Lân và Đào Thành Chương.[12] Mặc dù tuyên bố phản Thanh, Quang phục Hội rất phê phán Tôn Dật Tiên.[13] Một trong những nhà cách mạng nữ nổi tiếng nhất là Thu Cẩn, người đấu tranh cho quyền của phụ nữ và cũng đến từ Quang phục hội.[13]

Ngoài ra còn có nhiều tổ chức cách mạng nhỏ khác, như Lệ Trí Học hội [勵志學會] tại Giang Tô, Công Cường hội [公強會] tại Tứ Xuyên, Ích Văn hội [益聞會] và Hán tộc Độc lập hội [漢族獨立會] tại Phúc Kiến, Dị Tri xã [易知社] tại Giang Tây, Nhạc Vương hội [岳王會] tại An Huy và Quần Trí hội [群智會/群智社] tại Quảng Châu.[14]

Ngoài ra còn có các tổ chức vũ trang chống Mãn Châu, gồm Thanh bang [青帮] và Hồng môn Trí Công đường [致公堂].[15] Tôn Trung Sơn đã tiếp xúc với Hồng môn, còn được gọi Thiên Địa hội.[16][17]

Ca Lão hội [哥老會] là một tổ chức khác, với Chu Đức, Ngô Ngọc Chương, Lưu Chí Đan và Hạ Long. Đây là nhóm cách mạng cuối cùng phát triển thành đảng Cộng sản.

Tôn Dật Tiên với thành viên Đồng Minh hội

Đồng Minh hộiSửa đổi

Tôn Dật Tiên thống nhất thành công Hưng Trung Hội, Hoa hưng Hội và Quang Phục Hội vào mùa hè năm 1905, qua đó thành lập Đồng Minh Hội [同盟會] tháng 8/1905 tại Tokyo.[18] Cương lĩnh của Hội là "Đánh đuổi giặc Thát[19], khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ hợp quần". Khi thành lập Đồng Minh hội có 90% thành viên có độ tuổi từ 17 đến 26.[20] Một số tác phẩm trong thời đại bao gồm các ấn phẩm mạn họa, như Thời sự Họa báo [時事畫報].[21]

Theo sử liệu, thì Cách mạng Tân Hợi thành công không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc vận động cách mạng lâu dài và các cuộc nổi dậy trước đó, mà công đầu là Đồng Minh hội do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý.

Trước Cách mạng Tân HợiSửa đổi

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì trước khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Tôn Dật Tiên và đảng cách mạng của ông đã tổ chức 10 cuộc khởi nghĩa chống Thanh nhưng đều bị thất bại. Điểm lược một vài vụ nổi bật:

Năm 1895, nhân lúc nhân dân cả nước căm giận nhà Thanh ký hiệp ước Mã Quan với Nhật Bản, ngày 26 tháng 10, Tôn Dật Tiên định tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu. Nhưng kế hoạch bị lộ, các đồng chí của ông bị giam và bị giết hơn 70 người, ông phải trốn sang Nhật Bản, rồi qua Honolulu. Đây là cuộc khởi nghĩa lần đầu của ông[22].

Tháng 11 năm 1899, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, Tôn Dật Tiên cùng với các đồng chí chạy thoát vội trở về nước, tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu lần thứ hai. Ông cử Trịnh Sĩ Lương đi đánh Huệ Châu [Quảng Đông], Sử Kiên Như đi ném tạc đạn giết Tổng đốc Đức Thọ. Nhưng cả hai việc đều thất bại. Sử Kiên Như tuẫn nạn và nhiều chiến sĩ cách mạng khác lại bị bắt giam và bị giết.

Ngày 18 tháng 9 năm 1905 tại Tokyo [Nhật Bản], Tôn Dật Tiên cùng Hoàng Hưng chủ trì việc hợp nhất Hưng Trung Hội với hai tổ chức cách mạng khác là Quang Phục hội và Hoa Trung hội. Kể từ đây, đảng vừa hợp nhất có tên là Trung Quốc Đồng Minh hội [gọi tắt là Đồng Minh hội], do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý[23]. Năm 1906, hai hội viên của Đồng Minh hội là Lưu Đạo Nhất và Thái Thiệu Nam tổ chức khởi nghĩa ở ba nơi là Bình Hương [Giang Tây], Trương Lăng [24] và Lưu Dương [Hồ Nam], nhưng tất cả đều thất bại.

Mùa thu năm 1907, Đồng Minh hội tổ chức khởi nghĩa ở Khâm Châu thuộc Quảng Đông [nay thuộc Quảng Tây]. Chiếm được Phòng Thành, nhưng vì không có tiếp tế, phải rút vào Thập Vạn Đại Sơn[25]. Đến mùa đông năm ấy, quân cách mạng đánh chiếm Trấn Nam Quan[26], Khâm Châu, Liêm Châu [nay tên là Hợp Phố thuộc Quảng Tây], Thượng Tư [Quảng Tây], nhưng rồi cùng vì không có tiếp tế nên phải rút đi.

Năm 1908, quân cách mạng cùng dân địa phương khởi nghĩa ở Hà Khẩu [Vân Nam]. Sau khi đánh thắng một trận lớn, quân và dân cùng tiến lên uy hiếp Mông Tự, nhưng rồi cũng phải rút đi vì không có tiếp tế. Mùa thu năm ấy, chi bộ Đồng Minh hội thành lập ở Hương Cảng [Hồng Kông]. Năm 1910, tổ chức này cho người vận động lực lượng tân binh ở Quảng Đông nổi dậy, nhưng bị đàn áp ngay.

Tháng 4 năm 1911, Đồng Minh hội chọn 500 cảm tử quân, hợp với quân địa phương, đánh vào dinh Tổng đốc Quảng Châu. Cuộc đột kích này do Hoàng Hưng và Triệu Thanh chỉ huy, nổ ra ngày 27 tháng 4 năm 1911 [tức ngày 29 tháng 3 năm Tân Hợi]. Tuy nhiên, do quân cảm tử và khí giới không đến cùng một lượt, và còn do bị lộ, nên số quân đánh vào dinh Tổng đốc phải tuẫn nạn nhiều. Sau tìm được 72 thi hài đem hợp táng tại Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, và được người đời gọi là Thất thập nhị liệt sĩ [27]. Đây là lần khởi nghĩa thứ 10 do Đồng Minh hội tổ chức, trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa tự phát ở Vũ Xương.

Cũng trong khoảng thời gian này, việc nhà Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi, nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6. 750.000 đô la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Đến ngày 9 tháng 5 năm 1911, Thanh đình ra sắc lệnh "Quốc hữu hóa đường sắt" nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu, Tứ Xuyên...nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt...Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái quân chủ "lập hiến", phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên[28].

Ngày 7 tháng 9 năm 1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô [tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên] kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhĩ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác. Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc triều Thanh phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.

Tổ chức khácSửa đổi

Tháng 2/1906 Nhật Tri hội [日知會] cũng gồm nhiều nhà cách mạng, như Tôn Vũ [孫武], Trương Hán Kiệt, Hà Quý Đạt và Chu Tử Long.[29][30] Những người tham gia hội sau đó trở thành nòng cốt thành lập Đồng Minh hội tại Hồ Bắc.

Trong tháng 7/1907 một số thành viên của Đồng Minh hội ở Tokyo đã ủng hộ một cuộc cách mạng ở khu vực sông Dương Tử. Lưu Quỹ Nhất [劉揆一], Tiêu Đạt Phong [焦達峰], Trương Bá Tường [張伯祥] và Tôn Vũ [孫武] thành lập Cộng Tiến hội [共進會].[31][32] Trong tháng 1/1911, tổ chức cách mạng Chấn Vũ học xã [振武學社] đổi tên thành Văn học xã [文學社].[33] Tưởng Dực Võ [蔣翊武] được chọn làm lãnh đạo.[34] Hai tổ chức này sau đó đóng góp vai trò quan trọng trong Cách mạng Vũ Xương.

Nhiều nhà cách mạng trẻ đã thông qua chương trình cấp tiến vô chính phủ. Tại Tokyo Lưu Sư Bồi [劉師培] đề xuất lật đổ chính quyền người Mãn và quay lại giá trị chính thống Trung Quốc. Tại Paris Lưu Sư Bồi, Ngô Trĩ Huy và Trương Nhân Kiệt tán thành với Tôn Vũ về sự cần thiết cách mạng và gia nhập Đồng Minh hội, nhưng lập luận rằng một sự thay thế chính trị của một chính phủ bằng một chính phủ khác sẽ không tiến bộ;cách mạng trong gia đình, giới tính và xã hội sẽ loại bỏ giá trị của chính quyền và sự áp bức. Trương Kế một người vô chính phủ cho rằng phương tiện cách mạng là bảo vệ ám sát và khủng bố, nhưng những người khác khẳng định rằng chỉ có giáo dục là chính đáng. Những người vô chính phủ quan trọng bao gồm Thái Nguyên Bồi, Uông Tinh Vệ và Trương Nhân Kiệt, là những người hỗ trợ tài chính cho Tôn Vũ. Nhiều người trong số những người vô chính phủ này sau đó sẽ đảm nhận các vị trí cao trong Quốc Dân Đảng [KMT].[35]

Tầm nhìnSửa đổi

Nhiều nhà cách mạng đẩy mạnh quan điểm phản Thanh/chống-Mãn và nhắc lại truyền thống lịch sử những cuộc chiến chống Mãn Châu với người Hán trong thời nhà Minh [1368–1644]. Chủ đạo giới trí thức bị ảnh hưởng bởi những cuốn sách có từ thời cuối nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Năm 1904, Tôn Dật Tiên tuyên bố mục tiêu tổ chức là "đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, bình đẳng ruộng đất." [驅除韃虜, 恢復中華, 創立民國, 平均地權].[18] Nhiều tổ chức ngầm thúc đẩy ý tưởng "Phản Thanh phục Minh" [反清復明] đã có từ những ngày Thái bình Thiên quốc.[36] Những người khác như Chương Bỉnh Lân, hỗ trợ con đường "hưng Hán diệt Hồ" [興漢滅胡] và "chủ nghĩa bài Mãn" [排滿主義].[37]

Cách mạng Tân Hợi [1911]

Mục 1

1. Nguyên nhân bùng nổ

- Ngày 9 - 5 - 1911, chính quyền Mãn Thanh ra sắc lệnh “Quốc hữu hóa đường sắt”, thực chất là trao quyền kinh doanh đường sắt cho các nước đế quốc, bán rẻ quyền lợi dân tộc.

=> Sự kiện này đã châm ngòi cho cách mạng Tân Hợi bùng nổ.

Mục 2

2. Diễn biến:

- Ngày 10 - 10 - 1911,Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và giành thắng lợi tại Vũ Xương, sau đó lan sang tất cả các tỉnh miền Nam và miền Trung của Trung Quốc.

- Ngày 29 - 12 - 1911,Chính phủ lâm thời tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân quốc và bầu Tôn Trung Sơn làm Tổng thống.

-Tháng 2 - 1912,Tôn Trung Sơn đã mắc sai lầm là thương lượng với Viên Thế Khải [quan đại thần của nhà Thanh], đồng ý nhường cho ông ta lên làm Tổng thống Cách mạng coi như chấm dứt.

Lược đồ Cách mạng Tân Hợi

Mục 3

3. Ý nghĩa:

- Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, đã lật đổ chế độ phong kiến chuyên chế Mãn Thanh, thành lập Trung Hoa Dân quốc, tạo điều kiện cho nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc phát triển.

- Cách mạng Tân Hợi có ảnh hưởng lớn đến phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, trong đó có Việt Nam.

- Tuy nhiên, cách mạng còn nhiều hạn chế, đó là:

+ Không nêu vấn đề đánh đuổi đế quốc.

+ Không tích cực chống phong kiến đến cùng.

+ Không giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân.

ND chính

Cách mạng Tân Hợi [1911]: nguyên nhân bùng nổ; diễn biến chính; ý nghĩa.

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duyCách mạng Tân Hợi [1911]

Loigiaihay.com

  • Lý thuyết Trung Quốc giữa thế kỉ XIX- Đầu thế kỉ XX

    Lý thuyết Trung Quốc giữa thế kỉ XIX- Đầu thế kỉ XX

  • Vì sao các nước đế quốc tranh nhau xâm chiếm Trung Quốc?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 59 SGK Lịch sử 8

  • Dùng lược đồ, trình bày đôi nét về diễn biến của phong trào Nghĩa Hòa đoàn.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 60 SGK Lịch sử 8

  • Dựa theo lược đồ, trình bày một vài nét chính diễn biến của Cách mạng Tân Hợi?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 62 SGK Lịch sử 8

  • Nêu những kết quả và hạn chế của Cách mạng Tân Hợi [1911]?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 66 SGK Lịch sử 8

  • Tại sao thực dân Pháp xâm lược nước ta?

    - Muốn chiếm nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng

Tam dân chủ nghĩa vẫn còn thời sự với VN

Chụp lại hình ảnh,

Tôn Trung Sơn chủ trương tam dân chủ nghĩa, cách mạng dân chủ tư sản và là cha đẻ nền cộng hòa đầu tiên ở Trung Quốc.

Một trăm năm sau khi cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công ở Trung Quốc [10/10/1911], các sử gia Việt Nam nhận xét tư tưởng cách mạng và dân túy của lãnh tụ cách mạng tư sản Tôn Trung Sơn, tiếp tục giữ nguyên giá trị không chỉ với Trung Quốc mà còn với Việt Nam.

Các sử gia cũng cho biết, Việt Nam là quốc gia ở khu vực có nhiều duyên nợ với Cách mạng Tân Hợi, khi đã nhiều lần trở thành nơi nương náu của nhà cách mạng và được Tôn Trung Sơn - người được cả Trung Quốc và Đài Loan tôn vinh là quốc phụ - từng lựa chọn làm điểm tựa cho cách mạng ở Trung Quốc.

Bình luận với BBC về giá trị của các tư tưởng cách mạng tư sản và học với thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Trung Sơn với xã hội Việt Nam ngày nay, một nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Việt Nam học tại Hà Nội nói:

“Tôi cho rằng nó vẫn còn tính thời sự tuy trên thế giới ngày nay, người ta có thể giải quyết các mâu thuẫn xã hội bằng các biện pháp khác nhau, tùy theo tình hình mỗi nước, mỗi địa phương khác nhau,” Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Quang Ngọc nhận xét.

Một chuyên gia khác cho BBC hay Cách mạng Tân Hợi với tư tưởng dân túy kết hợp bạo lực cách mạng không chỉ tác động ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tới nhiều quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam:

“Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20, từ nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cho tới Hồ Chí Minh, đều chịu tác động của tư tưởng Tôn Trung Sơn,” Giáo sư Chương Thâu, nguyên Trưởng phòng Lịch sử Cận đại thuộc Viện Sử học Việt Nam nói.

Cách mạng Tân Hợi theo tư tưởng cải cách Dân chủ Tư sản, vốn kéo dài từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ 20, gặt hái thành công với khởi nghĩa Vũ Xương, Hồ Bắc [10/10/1911].

Diễn biến lịch sử này đã lập nên chính quyền cách mạng lâm thời của Trung hoa Dân Quốc hay một chính quyền dân chủ nhân dân, nền cộng hòa, đầu tiên ở quốc gia châu Á này, rất lâu trước khi các ông Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ Đài Loan, hoặc Mao Trạch Đông - lãnh tụ cộng sản Trung Quốc, "tiếp nối" theo các cách thức khác nhau.

Riêng đối với Việt Nam, ông Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo của Cách mạng Tháng 8/1945, được cho là đã dịch Chủ nghĩa Tam Dân trong những năm ở thập niên 1920 để huấn luyện cho các đồng chí cách mạng của ông, sử gia Chương Thâu ghi nhận.

Duyên nợ Việt Nam

Có một sự gặp gỡ lịch sử đáng chú ý giữa bác sỹ Tôn Dật Tiên, tức Tôn Trung Sơn, người nguyên quán ở Quảng Đông, và Việt Nam, khi trong một số giai đoạn hoạt động cách mạng quan trọng của mình, nhà Cách mạng hàng đầu của Trung Quốc đã tới Việt Nam nhiều lần để hoạt động, chuẩn bị cho tiến trình cách mạng ở quê nhà của ông.

Các dấu tích lịch sử vẫn có thể được tìm thấy, theo xác nhận của các sử gia.

“Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, Việt Nam đã trở thành điểm tựa và là địa bàn hoạt động thường xuyên của Tôn Trung Sơn,” Giáo sư Nguyễn Văn Khánh, viết trong một tham luận tại một Hội thảo Quốc tế năm 2008 về Tôn Trung Sơn và khởi nghĩa Quảng Tây, Trung Quốc.

“Để thực hiện mục tiêu lật đổ nhà Thanh, ông đã nhiều lần qua lại Việt Nam: lần ngắn là hai tuần, lần lâu đến hơn một năm để tuyên truyền cách mạng, thu phục và chuẩn bị lực lượng.

“Đặc biệt, ông còn tiến hành tiếp xúc, liên lạc với một số sĩ phu yêu nước Việt Nam để bàn kế hoạch phối hợp hành động,” Hiệu trưởng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định.

Theo Giáo sư Khánh, Tôn Trung Sơn đã để lại dấu ấn đầu tiên là “những cuộc viếng thăm Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tuyên truyền cách mạng trong giới Hoa kiều”, đồng thời để chuẩn bị lực lượng và tổ chức thực hiện những “dự mưu khởi nghĩa chống lại chính quyền Mãn Thanh” trong thời gian từ 1900 đến 1908.

Theo tài liệu của giới sử học, chuyến viếng thăm đầu tiên của Tôn Trung Sơn đến Việt Nam là vào ngày 21/6/1900, khi ông đến từ Hong Kong qua cảng Sài Gòn rồi lưu lại ở đây hơn 2 tuần, đến ngày 8/7/1900 thì rời đi Singapore.

Lần thứ hai Tôn Trung Sơn đến Việt Nam theo lời mời của Toàn quyền Đông Dương qua đường ngoại giao với viên Công sứ Pháp ở Tokyo. Tôn Trung Sơn tới Hà Nội vào ngày 13/12/1902 và ở đến đầu năm 1903 thì đi Hoa Kỳ qua nẻo Nhật Bản.

Trong lần thăm này, theo tài liệu của giới sử học, ngoài mục đích dự hội chợ, Tôn Trung Sơn còn tiến hành “gặp gỡ, tiếp xúc với một số Hoa kiều nhằm tuyên truyền, thu phục, tập hợp lực lượng cách mạng”.

Trụ sở Hà Nội

Chụp lại hình ảnh,

Bia đá tại số nhà 22 phố Hàng Buồm, Hà Nội còn ghi lại việc Tôn Trung Sơn từng lưu trú và hoạt động tại đây

Lần tiếp theo tới Việt Nam của nhà cách mạng là vào cuối năm 1905, khi Chính phủ Nhật Bản chấp thuận yêu cầu của chính quyền Mãn Thanh, trục xuất Tôn Trung Sơn vì các hoạt động cách mạng, vẫn theo Giáo sư Khánh.

“Ông buộc phải cùng một số chiến hữu như Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ tới Việt Nam trú ngụ cho tới đầu năm 1906.”

Một nhà sử học khác, ông Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trên tờ báo mạng VietnamNet hồi tháng 7/2005 khẳng định “Tôn Trung Sơn ở Sài Gòn trong khoảng hơn nửa năm rồi rời qua Indonesia.”

Giới sử học Việt Nam căn cứ cuốn Tự truyện của Tôn Trung Sơn, xuất bản ở Hà Nội năm 1995, cho biết ông đã lưu trú ở Hà Nội và đã thành lập tại đây “một tổ chức có lẽ là chi nhánh Đồng Minh hội, gọi là cơ quan bộ,” để chuẩn bị đẩy mạnh công tác tuyên truyền và chuẩn bị công việc khởi nghĩa.

Lần cuối cùng, Tôn Trung Sơn đến Việt Nam là vào khoảng tháng 3 năm 1907 và lưu lại lâu nhất, khoảng hơn một năm.

Theo sử gia Dương Trung Quốc, tại Hà Nội, Tôn Trung Sơn ngụ tại số nhà 22 phố Hàng Buồm, rồi mở một quán trà tại một ngôi nhà cùng phố. Tiếp đó, ông “công khai thành lập trụ sở của Trung Quốc Đồng minh hội” ở số 61 đường Gambetta [nay là đường Trần Hưng Đạo].

Để thực hiện mục đích khởi nghĩa, Tôn Trung Sơn đã liên lạc với bên ngoài “tổ chức mua và vận chuyển vũ khí từ Nhật về biên giới Trung Quốc”, đồng thời “chiêu tập lực lượng nổi dậy ở Việt Nam”.

Theo Giáo sư Chương Thâu, chính trong thời gian này, “Tôn Trung Sơn đã có nhiều mối liên hệ với các nhà yêu nước Việt Nam như Hoàng Hoa Thám và các sĩ phu trong Trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội”, để bàn việc phối hợp tác chiến.

“Ông còn xuống tận Thái Bình để tiếp xúc với Tổng đốc Trần Đình Lập, một quan lại cấp tỉnh ở Việt Nam để bàn bạc, trao đổi,” tài liệu cho biết.

“Được sự hỗ trợ từ nhiều phía, lực lượng nghĩa quân của ông đã đông tới hàng ngàn người. Với lực lượng này, Tôn Trung Sơn quyết định tiến đánh vùng duyên hải từ Phòng Thành đến Đông Hưng,” tham luận của sử gia Nguyễn Văn Khánh khẳng định.

Chợ Lớn, Sài Gòn

Vẫn theo Tự truyện của Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng này còn có quan hệ sâu rộng với tầng lớp Hoa Kiều ở Chợ Lớn, Sài Gòn và Hà Nội lúc bấy giờ.

Còn theo tài liệu của giới sử gia, để tổ chức thu phục tập hợp lực lượng và chuẩn bị vũ khí nổi dậy khởi nghĩa, ông đã tiến hành vận động quyên góp và tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các chí sĩ Việt Nam, và nhất là của nhiều đồng bào Hoa kiều đang sinh sống và làm ăn tại Hà Nội và Sài Gòn.

“Ở Chợ Lớn, Sài Gòn có người như Hoàng Cảnh Nam đã hiến toàn bộ tài sản để giúp việc tuyển mộ quân sĩ và chi phí các hoạt động cho nghĩa quân,” Giáo sư Khánh khảo cứu tư liệu về Tôn Trung Sơn cho biết.

“Ngoài ra, các thương gia lớn ở Sài Gòn như Lý Trác Phong, Tằng Tích Thu, Mã Bồi Sinh, mỗi người quyên góp mấy mươi ngàn đồng. Theo đánh giá của Tôn Trung Sơn thì “đó cũng là việc làm hiếm thấy lúc bấy giờ.”

Theo khảo cứu của các sử gia, sau những thất bại trong công cuộc khởi nghĩa, Tôn Trung Sơn lại rời khỏi Việt Nam và đi ra hải ngoại như Singapore, Hoa Kỳ rồi Nhật để tiếp tục tìm nguồn tài chính cho cách mạng Trung Quốc.

Đặc biệt, trong khoảng thời gian từ cuối năm 1907 đến đầu 1908, Tôn Trung Sơn đã “trực tiếp chỉ đạo tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa ở hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam” vốn nằm sát biên giới với Việt Nam.

Trong đó, trận đánh tại Trấn Nam Quan vào tháng 10/1907 giành thắng lợi, đóng vai trò quan trọng với các hoạt động vũ trang non trẻ của quân đội cách mạng Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo ở dọc vùng biên giới Việt - Trung thuộc các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam.

“Thắng lợi này không chỉ trực tiếp làm lung lay nền thống trị nhà Thanh mà còn góp phần cổ vũ động viên những người yêu nước Việt Nam trong công cuộc chống đế quốc Pháp, giải phóng dân tộc vào hồi đầu thế kỷ XX,” theo Giáo sư Khánh.

'Ảnh hưởng to lớn'

Nguồn hình ảnh, VNN

Chụp lại hình ảnh,

Tòa nhà Hội Quán Quảng Đông của Hoa Kiều cũ tại 22 phố Hàng Buồm là nới Tôn Trung Sơn từng hoạt động.

Cuộc Cách mạng Tân Hợi [1911] theo khuynh hướng dân chủ tư sản theo chủ thuyết nổi tiếng Tam Dân chủ nghĩa – Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, do Tôn Trung Sơn lãnh đạo có vai trò vô cùng to lớn trong lịch sử Trung Quốc, lịch sử khu vực, châu Á, cũng như mở rộng ra với phương Đông, thế giới và thời đại.

Đối với bản thân Trung Quốc và Đài Loan, theo Giáo sư Chương Thâu, khi làm cuộc cách mạng đánh đổ nhà Mãn Thanh, đánh đổ chủ nghĩa phong kiến Trung Quốc thì nhà cách mạng đã làm được một công việc có ý nghĩa vĩ đại “cho cả Trung Quốc lục địa và Trung Hoa dân quốc.”

“Cả Trung Quốc lục địa và Đài Loan đều có chung một người được coi là quốc phụ, là cha đẻ của Cách mạng của Trung Quốc, đó là Tôn Trung Sơn mặc dù Trung Quốc sau đó đi theo thể chế cộng sản, còn Đài Loan tiếp tục đi theo đường lối Trung Hoa dân quốc để theo đuổi một thể chế dân chủ, tự do, đại nghị tư sản,” Giáo sư Thâu nói.

Trước câu hỏi, giữa Trung Quốc và Đài Loan, ai có thể được cho là người thừa kế “xứng đáng hơn” di sản của Tôn Trung Sơn, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc nhận xét:

“Ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn lúc đầu là ở Trung Quốc nội địa, đặc biệt ở khu vực Quảng Đông, còn sau này cái được thừa hưởng nhiều là ở Đài Loan, mà thậm chí họ còn giữ được nhiều [di sản] của Tôn Trung Sơn.”

“Năm 1949, ở Trung Quốc là chính quyền cộng sản rồi, còn chính quyền Dân Chủ Tư Sản đã chuyển sang bên Đài Loan là chính.”

Ngược dòng lịch sử, về ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn và cách mạng Tân Hợi với cách mạng giành độc lập ở Việt Nam, Giáo sư Chương Thâu cho biết thêm:

“Hồ Chí Minh từng khẳng định ban đầu, trong một cuốn sách lấy bút hiệu Trần Dân Tiên, rằng ‘Chủ thuyết này phù hợp với Việt Nam hơn cả’’

“Sau này, khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh còn lấy ba chữ làm tiêu ngữ là ‘Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.’ Đó là Tam dân Chủ nghĩa và ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn,” nhà nghiên cứu nói.

Cuối cùng, nhân dịp kỷ niệm 100 năm kỷ niệm cuộc Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc, một số ý kiến của giới nghiên cứu cũng cho biết ý nghĩa cuộc cách mạng tư sản và tư tưởng dân chủ, dân sinh, dân quyền của Tôn Trung Sơn vẫn còn giữ nguyên nhiều giá trị của chúng, không chỉ với Trung Quốc, mà còn với Việt Nam, hai quốc gia đã lựa chọn mô hình cộng sản chủ nghĩa.

Video liên quan

Chủ Đề