Bản quyền tác phầm có hiệu lực trong bao lâu

Người ta bắt đầu quan tâm đến việc bảo hộ quyền tác giả từ rất lâu trước đây, từ những năm đầu thế kỷ XVI tại nước Anh đã xuất hiện giấy phép bản quyền cho các xưởng in, khởi đầu cho những giấy tờ pháp lý bảo hộ quyền tác giả sau này.

Mục đích của việc đăng ký bản quyền tác giả để đảm bảo quyền lợi cho tác giả, người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm cũng như người đã bỏ tiền bạc công sức để tạo nên tác phẩm. Nếu như tác phẩm không được bảo hộ thì sẽ hạn chế khả năng sáng tạo, sáng tác trong xã hội.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như hệ thống các nước trên thế giới thì quyền tác giả đối với tác phẩm sẽ được bảo hộ tự động kể từ khi tác phẩm đó được sinh ra, tác giả sẽ không phải chứng minh mình là tác giả của tác phẩm trừ trường hợp có những tranh chấp phát sinh.

Thời hạn bảo hộ bản quyền tác giả

Về vấn đề thời hạn bảo hộ quyền tác giả thì không phải tác giả sẽ có quyền đối với tác phẩm của mình vô thời hạn, các độc quyền mà pháp luật đảm bảo cho chủ sở hữu sẽ chỉ trong một khoảng thời gian xác định ngoại trừ quyền nhân thân. Quyền nhân thân [trừ quyền công bố tác phẩm] tức là quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền được ghi tên tác giả, lưu bút danh trên tác phẩm. Còn đối với quyền sở hữu tác phẩm thì chỉ được trong một khoảng thời gian tùy thuộc vào quy định của pháp luật mỗi quốc gia và loại hình tác phẩm.

Theo công ước Berne thì thời hạn tối thiểu bảo hộ quyền tác giả là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời [chỉ đối với tác phẩm văn học- nghệ thuật]. Các quốc gia có thể quy định thời hạn này dài hơn.

Ở Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả như sau:

– Đối với tác phẩm di cảo: thời hạn bảo hộ là 50 năm kể tính từ ngày đầu tiên tác phẩm được công bố.

-Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, điện ảnh, tác phẩm khuyết danh: thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu. Đối với trường hợp tác phẩm chưa được công bố trong  thời hạn là 25 năm kể thừ khi tác phẩm được hình thành thì thời hạn bảo hộ trong trường hợp này là 100 năm.

– Các loại hình tác phẩm còn lại [ văn học – nghệ thuật]: Thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Tại một số quốc gia Châu Âu thì thời hạn này là 70 năm sau khi tác giả qua đời.

– Năm tính trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả được tính như sau: thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt vào 24h ngày 31 tháng 12 năm cuối cùng của thời hạn bảo hộ quyền tác giả theo quy định.

Sau khi chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả thì ai là chủ sở hữu tác phẩm?

Sau khi chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả thì  quyền sở hữu tác phẩm sẽ thuộc về cộng đồng; tức là ai cũng có thể sử dụng tác phẩm đó vào mục đích cá nhân một cách hợp pháp mà không bị ngăn cản bởi bất kỳ một chế định pháp luật như: quyền chế tác, quyền cải biên, chuyển thể…

Việc sử dụng tác phẩm không được làm mất đi bản chất của tác phẩm và phải thể hiện tên của tác giả, vì quyền nhân thânh như lưu bút danh, quyền đặt tên cho tác phẩm, bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, không ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của tác giả.

Ý nghĩa của thời hạn bảo hộ quyền tác giả?

Thời hạn bảo hộ quyền là khoảng thời gian mà tác giả có thể thu được những quyền và lợi ích hợp pháp từ việc khai thác tác phẩm.

Ví dụ: như cho thuê tác phẩm, chuyển nhượng quyền sử dụng tác phẩm, cho phép chuyển thể tác phẩm… Thời hạn quy định của pháp luật bảo hộ tác phẩm là khoảng thời gian đủ để tác giả có thể khai thác được tác phẩm do mình sáng tạo ra.

Trên đây, là những thông tin mà Luật Việt Tín cung cấp cho quý khách hàng có nhu cầu tìm hiểu về thời hạn bảo hộ của quyền tác giả. Ngoài ra, quý khách có thể tìm hiểu thông tin tại bài viết: Hiểu thêm về quyền tác giả

Mọi thắc mắc, phản hồi thông tin của quý khách về các dịch vụ Sở hữu trí tuệ của Việt Tín quý khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua tổng đài  và email tư vấn.

Pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ các quyền của chủ thể đối với sản phẩm trí tuệ do họ tạo ra. Pháp luật Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ quyền tac giả nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Vậy pháp luật quy định thế nào về vấn đề này?

Thời hạn bảo hộ quyền tác giả là khoảng thời gian do pháp luật quy định, trong đó các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người thừa kế quyền tác giả được Nhà nước bảo hộ.

Thời hạn bảo hộ được quy định tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Theo đó, có thể xác định về thời hạn bảo hộ như sau:

Bảo hộ vô thời hạn

Các quyền được pháp luật bảo hộ vô thời hạn là các quyền nhân thân gắn liền với tác giả không thể chuyển dịch, bao gồm: Quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả..

Bảo hộ có thời hạn

Các quyền đối với tác phẩm được pháp luật bảo hộ có thời hạn bao gồm quyền nhân thân có thể chuyển dịch [quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm] và các quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ có hai cách tính thời hạn bảo hộ quyền tác giả:

– Đối với tác phẩm điện ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh: là những tác phẩm có thời hạn bảo hộ không tính theo nguyên tắc đời người.

+ Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO cũng như tham gia kí kết một số điều ước quốc tế song phương và đa phương liên quan đến quyền tác giả. Vì vậy, các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này phải phù hợp và tương thích với các cam kết quốc tế, bao gồm: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ [Hiệp định TRIPs], Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật [Công ước Beme] và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì [BTA].

+ Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình. Việc xác định thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng trong trường hợp này được hiểu là nếu tác phẩm đó đã được công bố trong vòng 25 năm kể từ khi tác phẩm được định hình trên một hình thái vật chất thì thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm; nếu càng công bố muộn thì thời hạn bảo hộ sẽ ít đi.

Ví dụ: Tác phẩm đã được định hình nhưng đến năm thứ 40 tác giả mới công bố thì thời hạn bảo hộ chỉ còn sáu mươi năm kể từ khi công bố.

+ Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn bảo hộ được tính từ khi tác phẩm đó được định hình. Việc xác định thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu trong trường hợp này được hiểu là nếu tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu đã được định hình theo hình thái vật chất nhất định nhưng chưa được công bố thì thời điểm bắt đầu để xác định thời hạn bảo hộ [năm mươi năm] là thời điểm tác phẩm đó được định hình. Nếu hết năm mươi năm đó tác phẩm mới được công bố thì sẽ không được bảo hộ nữa.

+ Tác phẩm khuyết danh là tác phẩm mà tác giả không đứng tên trên tác phẩm đó hoặc hoặc chỉ đề kí hiệu trên tác phẩm nhưng kí hiệu đó không đủ cơ sở để xác định chính xác về tác giả của tác phẩm. Trong thời hạn trên, người được hưởng quyền đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước, trong trường hơp tác phẩm khuyết danh cho các tổ chức, cá nhân đang quản lí thì tổ chức, cá nhân đó được hưởng quyền đối với tác phẩm.

Khi các thông tin về tác giả xuất hiện trong thời hạn năm mươi năm kể từ khi tác phẩm khuyết danh được công bố lần đầu tiên đủ để xác định danh tính của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khuyết danh thì các quyền đối với tác phẩm đó thuộc về họ và sẽ được bảo hộ kể từ ngày danh tính của họ được xác định cho đến năm mươi năm sau khi họ chết [nếu tác phẩm khuyết danh đó không thuộc tác phẩm điện ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng].

– Đối với tác phẩm di cảo thì thời hạn bảo hộ là năm mươi năm kể từ khi tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên. “di cảo” được hiểu là bản thảo tác phẩm của người chết để lại. Theo đó, có thể hiểu tác phẩm di cảo là tác phẩm chỉ được phát hiện sau khi tác giả của tác phẩm đã chết. Vì vậy, khi tác giả còn sống thì tác phẩm đã được định hình theo hình thái vật chất nhất định nhưng chưa ai biết về tác phẩm đó nên thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm này không được xác định theo thời điểm tác phẩm được định hình.

– Đối với tác phẩm thuộc các loại hình khác thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Trong đó, đối với tác phẩm do một tác giả sáng tạo thì thời điểm bắt đầu để tính năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết là thời điểm tác giả đó chết hoặc được coi là đã chết. Đối với tác phẩm do các đồng tác giả cùng sáng tạo thì thời điểm bắt đầu để tính năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết là thời điểm tác giả cuối cùng chết hoặc được coi là đã chết.

Việc pháp luật quy định về bảo hộ quyền tác giả năm mươi năm sau khi tác giả chết nhằm xác định quyền để lại thừa kế của tác giả đối với tác phẩm cho những người thừa kế của họ. Vì vậy, khi tác giả chết quyền tác giả cũng là loại di sản thừa kế và được chuyển dịch theo quy định của pháp luật thừa kế.

Lưu ý, Thời hạn bảo hộ theo quy định nêu trên chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Trên đây là nội dung Thời hạn bảo hộ quyền tác giả Lawkey gửi đến bạn đọc. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ Lawkey để được tư vấn.

Xem thêm: Phân loại tác phẩm

Nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả

Video liên quan

Chủ Đề