Bài học của chính sách kinh tế mới với Việt Nam

Từ chính sách kinh tế mới ở Nga, Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm nào cho công cuộc đổi mới đất nước hiện nay?

A. Chỉ tập trung phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn

B. Quan tâm đến lợi ích của các tập đoàn, tổng công ti lớn

C. Chú trọng phát triển một số ngành công nghiệp nặng

D. Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần có sự kiểm soát của nhà nước

Hướng dẫn

Từ chính sách kinh tế mới ở Nga, Việt Nam có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc đổi mới đất nước hiện nay: – Xác định đúng vai trò quyết định của nông dân đối với thành công của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đối với những nước có nền kinh tế tiểu nông, nông dân chiếm đại đa số trong dân cư. – Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, xây dựng liên minh công nông trên cơ sở cả chính trị và kinh tế. – Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần có sự kiểm soát của nhà nước. Con đường đi từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải qua những bước trung gian, những hình thức quá độ. – Đổi mới quản lý kinh tế theo hướng chuyển từ biện pháp hành chính thuần túy sang biện pháp kinh tế. Đáp án cần chọn là: D

CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ [1921 – 1941]

Kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười [7-11-1917 - 7-11-2017]

NGÔ VƯƠNG ANH

1/ Ở Liên Xô, mùa xuân năm 1921, nội chiến đã kết thúc nhưng đất nước lâm vào khủng hoảng chính trị, kinh tế - xã hội trầm trọng. Hầu hết các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Khủng hoảng chính trị xuất hiện với những biểu hiện rõ nét: bất bình xã hội, âm mưu bạo loạn lật đổ, liên minh công nông suy yếu... Có thể nói, chính quyền Xô - viết lúc đó đứng trước bờ vực còn - mất.

Nhìn từ thực tiễn và với quan điểm biện chứng, hiểu rõ những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra, V.I. Lê-nin thấy rõ những biểu hiện khủng hoảng trầm trọng có nguyên nhân do chính sách Cộng sản thời chiến trong giai đoạn trước. Từ những nhận định này, V.I. Lê-nin đã đưa ra những phương thức chuyển đổi một cách cơ bản những chính sách cũ không còn phù hợp bằng Chính sách kinh tế mới [NEP] với những luận điểm nổi bật mang tính cách mạng, bước ngoặt và đột phá trong tư duy.

Trong NEP, những nội dung nổi bật được V.I. Lê-nin đốc thúc thực hiện cấp bách trong thực tiễn đời sống - xã hội bằng những biện pháp quyết liệt là:

Thứ nhất, phát triển tối đa lực lượng sản xuất. Trước tiên là trong nông nghiệp phải thay ngay chính sách trưng mua bằng mệnh lệnh từ trong nội chiến bằng chính sách thuế lương thực. Đây là đòn bẩy mạnh mẽ để phát triển nền sản xuất nông nghiệp đang kiệt quệ sau chiến tranh, trong đó đặc biệt chú trọng lợi ích của người nông dân. Theo NEP, người nông dân chỉ phải nộp một phần sản phẩm cho nhà nước, phần còn lại thuộc về họ và họ được tự do sử dụng phần sản phẩm này. Từ nông thôn, không khí tích cực phát triển sản xuất lan đến các khu vực khác của cả nền kinh tế.

Thứ hai, tổ chức thị trường, chấn hưng thương nghiệp. Thương nghiệp là “mắt xích” trọng yếu trong “sợi xích” kinh tế. Để bảo đảm việc lưu thông bình thường hàng hóa và phát triển thương nghiệp, NEP chủ trương ổn định đồng rup và củng cố nền tài chính quốc gia. Những chính sách này được đưa ra dựa trên sự nhìn nhận sửa chữa những sai lầm từ thực tiễn dẫn tới khủng hoảng chính trị, kinh tế - xã hội sau nội chiến. Kết luận lớn nhất rút từ những sai lầm đó là không thể nóng vội thực hiện quá độ trực tiếp lên CNXH với một nước chủ nghĩa tư bản chưa phát triển cao như Nga. V. I. Lê-nin cho rằng “Thời kỳ quá độ [phải] là một loạt những bước quá độ”, phải qua những con đường gián tiếp chứ không phải “quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị”.

V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ trong NEP: Phải sử dụng cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần mới huy động được sức mạnh của toàn xã hội cho việc phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động - điều trọng yếu nhất của bất cứ nền sản xuất nào.

Đi nhanh vào thực tiễn, NEP đã xác định đúng phương hướng, mục tiêu và biện pháp thực hiện, không chủ quan duy ý chí. Đó cũng là điều trọng yếu với đường lối lãnh đạo đất nước của một đảng cầm quyền. Ngay từ giai đoạn đầu thực hiện NEP đã cho thấy hiệu quả của nó. Từ NEP, nền kinh tế Liên Xô đã dần vận hành theo đúng quy luật khách quan và đã có những bước phát triển quan trọng. Liên Xô từ một “nước Nga đói” trở thành nước có nền nông nghiệp dồi dào, dần đi ra khỏi khủng hoảng. Những kết quả cụ thể đã lấy lại và củng cố lòng tin của nhân dân vào những lý tưởng tốt đẹp của CNXH.

2/ Từ góc nhìn so sánh, bối cảnh Việt Nam những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ 20 có nhiều nét tương tự bối cảnh Liên Xô những năm 20 của thế kỷ 20. Trên bối cảnh đó, nhiều đường nét của NEP đã được kế thừa thành công ở Đổi mới của Việt Nam sau đó 65 năm, từ Đại hội lần thứ VI của Đảng [1986].

Và cũng giống như NEP, điểm xuất phát của Đổi mới ở Việt Nam trước hết là đổi mới tư duy trong lĩnh vực kinh tế: Bằng những biện pháp mạnh, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng; phát triển thương mại, từng bước thay đổi cơ chế quản lý kinh tế cũ bằng những cơ chế quản lý và thiết chế kinh tế mới phù hợp quy luật của kinh tế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh xuất khẩu và kinh tế đối ngoại...

3/ Giai đoạn lịch sử từ Đại hội IV [1976] đến hết nhiệm kỳ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam [1991] ghi nhận Đảng ta đã nhận thức được tình thế và có được giải pháp thuận theo quy luật để vượt qua khủng hoảng, chuyển nền kinh tế vào thế ổn định và phát triển đúng hướng, đạt nhiều thành tựu trong hoàn cảnh khó khăn. Thành công này thuận với ý nguyện của nhân dân và hợp với xu hướng phát triển của thời đại.

Cũng nhìn từ những lần điều chỉnh đường lối, sửa sai, khắc phục những hậu quả do sai lầm để lại, có thể thấy ý nghĩa của thực tiễn, của những bài học thực tiễn, của quan điểm thực tiễn khi vận dụng lý luận để xây dựng đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng. Những đòi hỏi bức bách từ cuộc sống, thể hiện xu thế đổi mới tiến bộ, trong bối cảnh quốc tế mới cũng tạo những khả năng để sàng lọc, kiểm chứng tính đúng đắn của đường lối và cả phương pháp hoạch định đường lối, chính sách của Đảng. Nhìn từ NEP, V.I. Lê-nin để lại một tấm gương mẫu mực về sự nhạy bén và dũng cảm, kiên quyết đổi mới tư duy xuất phát từ thực tiễn. Bài học thực tiễn trong lịch sử xây dựng và điều chỉnh để đường lối cách mạng đúng đắn hơn vẫn cần được xem xét. Nhìn từ NEP có thể thấy rõ điều đó ở Việt Nam.

Vì nhiều nguyên nhân, NEP không kéo dài sau khi V.I. Lê-nin qua đời [1-1924]. Những “khúc quanh lịch sử” ở Liên Xô đã không cho phép phát huy những thắng lợi của NEP. Điều này không diễn ra ở Việt Nam. Sự nghiệp Đổi mới ở Việt Nam được khẳng định và đã có nhiều thành tựu. Sau Đổi mới 30 năm, Việt Nam đã và đang hội nhập vào các “sân chơi” lớn, khẳng định vị thế và vai trò của mình tại cả các diễn đàn khu vực và thế giới. Sự nghiệp Đổi mới không thể dừng lại mà cần tiếp tục với tinh thần mới, trong bối cảnh mới để đất nước tiếp tục phát triển bền vững.

Sau sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười [1917], những người cộng sản Nga và quần chúng nhân dân phải tiếp tục tiến hành cuộc nội chiến chống lại bọn phản động trong nước để bảo vệ thành quả cách mạng. Trong hoàn cảnh cấp bách, để có đủ lương thực, huy động được sức mạnh tập thể chống thù trong giặc ngoài, nhà nước Xô viết lúc bấy giờ tiến hành chính sách cộng sản thời chiến.

Chính sách cộng sản thời chiến được tiến hành và đưa đến nhiều thắng lợi trên mặt trận chính trị và quân sự. Bước ra khỏi cuộc chiến, không ít sự ngộ nhận việc tập trung hoá sản xuất, tuyệt đối hoá vai trò của nhà nước trong quản lý và phân phối, xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ,… là có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Những người cộng sản và quần chúng nhân dân lúc bấy giờ đã cho rằng chính sách đang thực hiện là phù hợp và có thể áp dụng lâu dài, tư tưởng sai lầm này xuất hiện một phần do chưa nhận thức được tính quanh co, phức tạp trong tiến trình vận động của lịch sử xã hội cũng như bị tình cảm chi phối, luôn khát vọng về một xã hội tiến bộ thay cho xã hội bất công.

Nếu như trong nội chiến, chính sách cộng sản thời chiến đã phát huy được tính ưu việt thì ở điều kiện xã hội hoà bình, chính sách này liên tiếp bị thất bại, nguồn động lực kích thích cho sự phát triển sản xuất không có, sản xuất bị đình đốn, xã hội xuất hiện tâm lý hoang mang, dao động,… thậm chí có cả cuộc bãi công của người công nhân. Lãnh tụ V. I. Lênin đã tự đánh giá rằng: “Được cao trào nhiệt tình lôi cuốn, chúng ta, những người đã từng thức tỉnh nhiệt tình của nhân dân - trước hết là về mặt chính trị, rồi sau về mặt quân sự, - chúng ta đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình đó mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cũng to tát như những nhiệm vụ chính trị chung, như những nhiệm vụ quân sự. Chúng ta đã tính - hay có lẽ nói như thế này đúng hơn: chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là - có thể dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản, để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa, trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng ta” [Lênin, Toàn tập, tập 44, 1978, p. 189].

Vấn đề cấp thiết đặt ra lúc bấy giờ cho nhà nước Xô viết là cần thay thế chính sách cấm tự do, buôn bán,… bằng những chính sách mềm dẻo hơn nhằm phát huy tính năng động của nền kinh tế, đồng thời, có cái nhìn hợp lý hơn về chủ nghĩa tư bản cả mặt lợi và mặt hại, V. I. Lênin từng nói: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” [Lênin, Toàn tập, tập 36, 1978, p. 334] và đi đến quan điểm cho rằng cần tiến hành sự kết hợp một số yếu tố của chủ nghĩa xã hội và một số yếu tố của chủ nghĩa tư bản: “người nào không đắm chìm trong ảo tưởng mà nhìn vào thực tế, thì phải hiểu rõ điều đó” [Lênin, Toàn tập, tập 43, 1978, p. 119].

Cần nhận thức rằng, chính sách cộng sản thời chiến là một chính sách hợp lý trong bối cảnh chiến tranh. Bước ra khỏi chiến tranh cần có một chính sách hợp lý hơn, mềm dẻo hơn để phát huy sức mạnh kinh tế trong thời bình. Đối với một nước tiểu nông, lạc hậu, việc dùng nhà nước xã hội chủ nghĩa để khai thác những điểm tích cực cũng như kiềm chế những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản là điều rất hợp lý trong bối cảnh khi cái cũ vẫn còn vị thế và cái mới, cái tiến bộ đang nhen nhóm hình thành. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không phải diễn ra trong ngày một, ngày hai, cũng không phải dùng ý chí là có thể thành công. Thời kỳ này diễn ra suốt một quá trình với những “cơn đau đẻ kéo dài”.

Để thực hiện chính sách kinh tế mới, V. I. Lênin đã vấp phải những nghi ngờ và sự hiểu lầm không nhỏ từ những người đồng chí của mình. Tuy nhiên, những thắng lợi từ chính sách kinh tế mới mang lại đã chứng minh sự lựa chọn của V. I. Lênin là hợp lý. Năm 1924, V. I. Lênin mất, chính sách kinh tế mới bị dừng lại vì nhiều nguyên nhân. Những tư tưởng trong chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin có ảnh hưởng rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất đã chứng minh cho tính ưu việt của chế độ kinh tế tập trung ở nước ta, đồng thời cũng báo hiệu rằng chính sách kinh tế tập trung ở nước ta trong thời kỳ chiến tranh không thể áp dụng tiếp tục trong hoà bình. Vinh quang và thắng lợi quá to lớn trong cuộc chiến chống để quốc Mỹ xâm lược! Chúng ta rơi vào ngộ nhận, chủ quan, duy ý chí, cho rằng mô hình kinh tế tập trung là đúng đắn trong mọi hoàn cảnh, và luôn mong muốn đi nhanh đến chủ nghĩa xã hội, Nhân dân ta sẽ hưởng được những điều tốt đẹp từ chế độ mới. Cảm tình cách mạng với một ý chí rất cao đẹp thôi là chưa đủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, cảm tình cách mạng và ý chí rất cao đẹp đó phải gắn liền với nhận thức đúng về tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử xã hội không đi theo một con đường thẳng mà bao giờ cũng phải trải qua những bước quanh co, phức tạp; lịch sử xã hội mặc dù chịu sự tác động của ý thức con người nhưng không đi theo đồ thức luận chủ quan của con người một cách tuyệt đối. Những thất bại trong xây dựng nền kinh tế sau khi thống nhất đất nước đến trước khi đổi mới đặt ra yêu cầu cần phải thay đổi mô hình kinh tế. Từ những năm 1980, tư duy “xé rào” để đổi mới đất nước ở nước ta bắt đầu hình thành. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng [12/1986] vạch rõ tinh thần quyết tâm đổi mới và đã đưa ra những quan điểm mới như xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa trên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, phải xuất phát từ tình hình thực tế của nước nhà - nền kinh tế nông nghiệp là chính và còn lạc hậu, đồng thời quán triệt và vận dụng quan điểm của V. I. Lênin cho phép nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần tồn tại,… cũng như tiến hành giao lưu và hợp tác với nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả những nước từng là kẻ thù. Trong những kỳ đại hội kế tiếp, quan điểm về đổi mới ngày một được bổ sung và hoàn thiện, tạo nên những bước đột phá mới cho sự phát triển của đất nước và có thể nhận định rằng sau hơn 35 năm đổi mới, chưa bao giờ nước ta có được cơ đồ, tiềm lực và vị thế như ngày nay./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Lênin, V. I. [1978]. Toàn tập, tập 36. Mátxcơva: Tiến bộ.

Lênin, V. I. [1978]. Toàn tập, tập 43. Mátxcơva: Tiến bộ.

Lênin, V. I. [1978]. Toàn tập, tập 44. Mátxcơva: Tiến bộ.

Video liên quan

Chủ Đề