Ba Vì có bao nhiêu dân tộc?

Huyện Ba Vì, Hà Nội có diện tích tự nhiên lớn, với 31 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 01 thị trấn, 7 xã miền núi và 01 xã đảo giữa sông Hồng.

Riêng 7 xã miền núi của huyện có tỷ lệ dân số người dân tộc thiểu số chiếm 38,3% dân số. Huyện có hai dân tộc thiểu số chính là dân tộc Mường và dân tộc Dao với những nét văn hóa, phong tục, tập quán đặc sắc riêng.

Đồng chí Nguyễn Đức Anh - Phó Chủ tịch UBND huyện Ba Vì cho biết, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội và Đảng bộ huyện, huyện Ba Vì đã ban hành Chương trình hành động thực hiện nghị quyết với các giải pháp cụ thể, chi tiết cho từng giai đoạn, từng thời kỳ. Trong đó, phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và các xã miền núi luôn được cấp uỷ, chính quyền huyện quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.

Huyện đã tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án của Trung ương, Thành phố về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chú trọng triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhất là các dự án đường giao thông, trường học, trạm y tế…

 Hạ tầng giao thông các xã miền núi của huyện Ba Vì được quan tâm đầu tư xây dựng, đảm bảo đi lại thuận lợi 4 mùa cho nhân dân

Về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong hai năm 2021 và 2022, huyện Ba Vì được Thành phố Hà Nội bố trí 384,5 tỷ đồng cho 29 dự án thuộc các lĩnh vực: trường học, y tế, giao thông, thuỷ lợi.

Đến cuối tháng 12/2022, đã có 7 dự án nghiệm thu đưa vào sử dụng, 12 dự án đã thi công xong đang hoàn thiện hồ sơ để bàn giao đưa vào sử dụng; 10 dự án thi công chuyển tiếp trong năm 2023. Các dự án hoàn thành đưa vào sử dụng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Bà Nguyễn Thị Hiện, dân tộc Mường ở thôn 2, xã Ba Trại phấn khởi nhận xét, nhờ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mà nơi bà đang sinh sống đã thay đổi mạnh mẽ. Nếu như trước đây, đường xá đi lại chỉ là đường đất, nhỏ hẹp thì nay đã có đường nhựa đến tận nhà, các công trình hạ tầng thiết yếu cũng được đầu tư xây dựng đầy đủ nên đồng bào rất yên tâm lao động sản xuất, gắn bó với quê hương.

Ở Ba Vì, đa số đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống bằng nguồn lợi do sản xuất nông nghiệp mang lại. Do đó, huyện tập trung phát triển các làng nghề gắn với phát triển rừng để tạo ra các sản phẩm OCOP. Hiện nay, Ba Vì có 19 làng nghề, trong đó có một số sản phẩm nổi tiếng của đồng bào dân tộc thiểu số như: Chè Ba Trại, miến dong Minh Hồng, thuốc Nam của người Dao…

Công tác lưu giữ, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá cồng chiêng của dân tộc Mường luôn được huyện Ba Vì quan tâm

Bên cạnh đó, huyện còn tập trung phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế từ vốn đầu tư của Trung ương, Thành phố và của huyện để đáp ứng tốt nhu cầu học tập, chăm sóc sức khoẻ nhân dân các xã miền núi. Chăm lo công tác lưu giữ, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hoá cồng chiêng của dân tộc Mường, thuốc Nam của dân tộc Dao… gắn với phát huy các tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tâm linh trên địa bàn huyện.

Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp trong phát triển kinh tế - xã hội, hiện tỷ lệ hộ nghèo ở 7 xã miền núi của huyện Ba Vì giảm xuống còn 0,66%, tương đương 125 hộ; 30/34 trường đạt chuẩn quốc gia; chương trình phổ cập giáo dục, xoá mù chữ, tái mù chữ đạt kết quả cao; tỷ lệ làng đạt danh hiệu Làng văn hoá, hộ gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hoá chiếm gần 89%.

Những kết quả đạt được cho thấy huyện Ba Vì đang tiến những bước mạnh mẽ trên con đường phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số của địa phương.

Tôi đã đến Ba Vì [Hà Nội] không biết bao lần và lần nào cũng được trải nghiệm vẻ đẹp văn hóa đầy sức gợi. Ở đó không chỉ có nhiều khu du lịch sinh thái hấp dẫn, mà còn có sự đa sắc màu dân tộc. Ngoài dân tộc Kinh còn có dân tộc Mường, Dao sinh sống. Trong đời sống, người Mường ở Ba Vì luôn biết dệt nên bao vẻ đẹp từ những nét văn hóa độc đáo, trong đó có văn hóa cồng chiêng.

Cồng chiêng là món ăn tinh thần đặc sắc của đồng bào dân tộc Mường.

Âm vang lời núi hồn quê

Ở Ba Vì lạ lắm, những cánh đồng lúa xen với rừng bạt ngàn, cũng xen trong đó nhiều khu du lịch. Sự phát triển của du lịch cùng nỗ lực của bà con đã giúp cồng chiêng không chỉ vang lên trong miền Ba Vì, mà nghệ nhân, thành viên các đội cồng chiêng đã chung tay mang cồng chiêng đi giao lưu ở nhiều địa phương khác, tỉnh thành khác.

Trong những lần tới xã Ba Trại, tôi thường đến nhà nghệ nhân Đinh Thị Lan. Năm nay bà đã 80 tuổi nhưng còn tinh anh lắm. Bà là “hạt nhân” cồng chiêng ở nơi đây. Không biết bao lần bà đã góp mặt trong những ngày hội của người Mường, giao lưu trong các dịp kỷ niệm, ngày hội các dân tộc Việt Nam. Bà cũng vinh dự được trao nhiều bằng khen, giấy khen vì có công gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa. Hiện bà là Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ [CLB] Cồng chiêng xã Ba Trại. Qua tìm hiểu, các thôn của xã Ba Trại đang lưu giữ 5 bộ cồng chiêng. Để phát huy giá trị của văn hóa cồng chiêng trong đời sống, xã Ba Trại đã thành lập và duy trì hoạt động của 3 đội cồng chiêng với sự tham gia của gần 60 thành viên. Hằng năm, các thành viên trong CLB đều tham gia hoạt động văn hóa văn nghệ. Các nghệ nhân tích cực truyền dạy về tiết tấu, âm hưởng của tiếng chiêng, khơi lại lời hát ví, hát đối, các bài hát, điệu múa mang đậm bản sắc của dân tộc Mường.

Nghệ nhân Đinh Thị Lan chia sẻ: “Các thành viên đã đi giao lưu nhiều nơi, nên cồng chiêng không chỉ ngân vang ở hội thôn, làng Ba Trại. Mỗi khi khai mạc mùa du lịch, những CLB cồng chiêng lại được dịp biểu diễn trước du khách”. Bà Đinh Thị Nhung [thôn 5 xã Ba Trại] cho biết: “Chúng tôi nhận thức được bản thân mình phải thừa kế giá trị văn hóa của cha ông, tích cực truyền dạy cho con cháu bởi lớp kế cận biết chơi, hiểu cồng chiêng là điều tuyệt vời, giúp cho văn hóa cồng chiêng sống lâu bền. Khi tham gia CLB Cồng chiêng, chúng tôi có cơ hội phát huy truyền thống của đồng bào mình, cất tiếng nói của dân tộc Mường”.

Với các CLB cồng chiêng ở xã Vân Hòa, ông Đinh Hữu Tiến được coi là “mỳ chính cánh”. Bởi giờ đây biểu diễn cồng chiêng là phụ nữ, nhưng ở Vân Hòa, ông Tiến là người am tường văn hóa cồng chiêng và đã dạy cho nhiều thành viên khác để các bà, các chị có thể biểu diễn thuần thục. Ông Tiến kể: “Từ xưa phong tục của đồng bào Mường phần lớn được lưu giữ theo lối truyền khẩu. Chẳng hạn, trong ngày Tết, ngoài chuẩn bị đầy đủ đồ thờ cúng, rượu, thịt, bánh chưng thì vui xuân không thể vắng tiếng cồng chiêng. Dù là “đặc sản” nhưng từng có lúc cả xã không còn bộ chiêng nào. Cồng chiêng cũng bị “chảy máu”, người nơi khác đến mua mang đi. Tôi và những người yêu văn hóa phải tự trang bị những bộ cồng chiêng mới, đặt mua tại Sơn Tây, thậm chí sang tận Hòa Bình để tìm những bộ chuẩn nhất. Từ năm 2015 thì chính quyền chung tay vào cuộc và xã đã có 3 bộ”.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản

Từng có một thời gian dài cồng chiêng Ba Vì ít được biểu diễn. Thậm chí có xã, cồng chiêng vắng bóng trong đời sống người dân. Ông Đinh Ngọc Dần ở thôn Lặt, xã Minh Quang, nhớ lại: “Ngày xưa, nhiều gia đình trong các thôn đều có một chiếc chiêng. Có hộ có cả một bộ 12 chiếc, tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Sau này do chiến tranh tàn phá, nghèo đói liên miên, một số hộ phải bán chiêng, một số vẫn còn giữ được nhưng lại dùng chiêng để úp vại tương nên chiêng bị biến âm hoặc vỡ. Có thời gian, người buôn đồ cổ đến săn tìm nên gần như không còn chiếc nào”.

Từ năm 2012, huyện Ba Vì đã triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số” và đã có những đánh giá, nghiên cứu về bản sắc văn hóa ở 7 xã miền núi, gồm Vân Hòa, Ba Trại, Tản Lĩnh, Yên Bài, Minh Quang, Khánh Thượng và Ba Vì. Mỗi xã được đầu tư 3 bộ cồng chiêng, những “hạt nhân” của các xã được cử đi tập huấn, giao lưu, các CLB Cồng chiêng được thành lập ở các xã và người dân ý thức hơn trong việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa dân tộc mình.

Tuy nhiên, thời gian đầu thực hiện Đề án, công việc gặp rất nhiều khó khăn. Để tiếng cồng, tiếng chiêng ngân vang trong không gian khoáng đạt của núi rừng thì phải có người hiểu sâu, chơi được nhạc cụ này. Nhiều cao niên ở các xã bàn với cán bộ xã mời nghệ nhân từ nơi khác về nói chuyện văn hóa cồng chiêng. Ai có kiến thức thì chia sẻ kinh nghiệm cùng những “ngón nghề” của mình để đánh thức niềm đam mê trong cộng đồng. Nhờ đó mà cồng chiêng được phục hồi.

Theo các nghệ nhân cồng chiêng, cách diễn tấu cồng chiêng của người dân tộc Mường ở huyện Ba Vì mang tính biểu cảm sâu đậm, diễn tả nội tâm sâu lắng. Nghệ thuật biểu diễn cồng chú trọng tới cách luyến láy, giúp người nghe cảm nhận được nội dung từng điệu cồng. Khi biểu diễn, phụ nữ Mường ở Ba Vì bao giờ cũng mặc trang phục truyền thống, gồm áo pắn, váy đen, đầu đội khăn trắng, cổ đeo vòng bạc và thắt lưng nhiều họa tiết, còn người dân Tây Nguyên thì đóng khố.

Nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng ở Ba Vì chú trọng các cách luyến láy, có âm sắc độc đáo mang tính biểu cảm, sự chuẩn xác. Đặc trưng của cồng chiêng nơi đây còn là lối chơi kết hợp nhuần nhuyễn của từng cá nhân, từ đó tạo nên sự thành công của đội cồng khi thể hiện từng giai điệu trong các ngày lễ hội, hiếu, hỷ... Khi đánh, mỗi chiếc cồng, chiêng phát ra một âm thanh khác nhau, từ âm cao nhất đến âm thanh trầm nhất. Để có bài cồng chiêng hay thì cần có những người am hiểu thể hiện. Chẳng hạn khi đón giao thừa ngày Tết thì tiếng chiêng rộn ràng, ngân vang, tiết tấu từ thấp đến cao. Qua tiếng cồng chiêng người ta có thể hiểu được đó là tiếng chúc phúc mọi nhà bước sang năm mới [nhân khang vật thịnh, bản làng đoàn kết cùng nhau xây dựng quê hương tươi đẹp hơn năm cũ]. Tiếng cồng chiêng khai hội làng, bản thì tưng bừng, thúc giục mọi người mau chân tới tham gia.

Theo ông Bùi Huy Giáp - Trưởng phòng Dân tộc huyện Ba Vì, cồng chiêng là một loại nhạc cụ rất quen thuộc với người Mường. Nhằm bảo tồn nét văn hóa đặc biệt này, năm 2020 Phòng Dân tộc đã tham mưu cho UBND huyện Ba Vì mua 3 bộ cồng chiêng chuẩn tặng cho các CLB ở các xã Ba Trại, Khánh Thượng và Tản Lĩnh, nâng tổng số thôn có bộ cồng chiêng lên 24/76 thôn có người Mường sinh sống tập trung. Ngoài việc hỗ trợ các bộ cồng chiêng chuẩn, huyện cũng mở các lớp dạy âm nhạc cồng chiêng cho các xã.

Bao năm tháng qua, những câu hát về Ba Vì đã ngân lên. Bao năm tháng tiếng cồng chiêng ngân rung giúp miền mây trắng trở thành vùng du lịch, vùng văn hóa và vẫn đang tiếp tục tỏa sáng. Hôm nay, tiếng cồng lại dội vào tôi những âm hưởng của cuộc sống, trong không gian cảnh sắc hữu tình, níu giữ tôi ở lại... Và sẽ còn nhiều chuyến tìm hiểu, trải nghiệm sự đặc sắc trong đời sống người dân ở miền núi Tản, sông Đà.

Ở Ba Vì có dân tộc gì?

Cư dân trong xã thuộc 3 dân tộc: Kinh, Mường, Dao với 2.378 người, trong đó người Dao chiếm đa số với 98% dân số, cư trú ở ba thôn Hợp Nhất, Yên Sơn và Hợp Sơn.

huyện Ba Vì có diện tích bao nhiêu?

427,3 km²Ba Vì / Diện tíchnull

Ba Vì là vùng gì?

Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía tây bắc thủ đô Hà Nội. Phía đông giáp thị xã Sơn Tây, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ và phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc.

huyện Ba Vì có bao nhiêu xã phường?

Huyện Ba Vì có 30 và 01 thị trấn, gồm: thị trấn Tây Đằng, Cam Thượng, Đông Quang, Chu Minh, Phú Châu, Phú Phương, Châu Sơn, Tản Hồng, Phú Cường, Cổ Đô, Thuần Mỹ, Sơn Đà, Tòng Bạt, Phú Sơn, Thái Hòa, Phong Vân, Phú Đông, Vạn Thắng, Đồng Thái, Vật Lại, Cẩm ...

Chủ Đề