10 thủ môn nhl hàng đầu 2022 năm 2022

Server Error in '/' Application.

Description: HTTP 404. The resource you are looking for [or one of its dependencies] could have been removed, had its name changed, or is temporarily unavailable.  Please review the following URL and make sure that it is spelled correctly.

"NHL" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem NHL [định hướng].

National Hockey League
Ligue nationale de hockey [tiếng Pháp]Môn thể thaoThành lậpMùa đầu tiênỦy viên hội đồngSố độiCác quốc giaTrụ sởLiên đoàn châu lụcĐương kim vô địchNhiều danh hiệu nhấtĐối tác truyền thôngTrang chủ
Mùa giải hiện tại hoặc giải đấu:
NHL mùa giải 2022-23
Khúc côn cầu trên băng
26 tháng 11 năm 1917 [104 năm trước],
Montréal, Québec, Canada[1]
1917–18
Gary Bettman
32[2]
Canada [7 đội]
Hoa Kỳ [25 đội]
Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Bắc Mỹ
Colorado Avalanche [lần thứ 3]
Montréal Canadiens[nb 1]

  • Canada
  • Sportsnet[nb 2]
  • TVA Sports
  • Hoa Kỳ
  • ABC
  • NHL Network

NHL.com

National Hockey League [NHL; tiếng Pháp: Ligue nationale de hockey—LNH] là một giải khúc côn cầu trên băng ở Bắc Mỹ, gồm 32 đội: 25 ở Hoa Kỳ và 7 ở Canada. NHL được coi là giải khúc côn cầu trên băng hàng đầu trên thế giới,[3] và một trong các giải thể thao chuyên nghiệp lớn ở Hoa Kỳ và Canada. Stanley Cup, danh hiệu thể thao lâu đời nhất Bắc Mỹ,[4] được trao cho đội vô địch loạt playoff cuối mùa giải.

National Hockey League được tổ chức lần đầu vào ngày 26 tháng 11, 1917, tại Khách sạn Windsor ở Montréal sau sự ngừng hoạt động của tổ chức tiền thân National Hockey Association [NHA] thành lập từ năm 1909 ở Renfrew, Ontario.[5] NHL ngay lập tức thế chỗ của NHA trong vai trò một trong các giải [league] cạnh tranh danh hiệu Stanley Cup [một giải đấu gồm nhiều đội từ các giải khác nhau] trước khi các giải sáp nhập và giải thể khiến NHL trở thành giải duy nhất cạnh tranh cho Stanley Cup vào năm 1926.

Ban đầu NHL có bốn đội đều thuộc Canada, vì vậy giải mới có tính từ "National" [quốc gia] trong tên gọi. Giải mở rộng cho các đội của Mỹ vào năm 1924, với sự gia nhập của Boston Bruins. Từ 1942 tới 1967, giải chỉ có 6 đội, được gọi là "Original Six". NHL thêm sau đội mới vào mùa 1967. Giải sau đó tăng lên 18 đội vào năm 1974 và 21 đội năm 1979. Từ 1991 tới 2000, NHL mở rộng thành 30 đội. Giải thêm đội thứ 31 vào năm 2017 và chuấn bị có đội thứ 32 vào năm 2021.

Trụ sở của giải đặt ở Thành phố New York kể từ năm 1989 thay cho Montréal.[6]

Sau tranh cãi giữa cầu thủ và ban quản lý dẫn tới việc hủy bỏ mùa giải 2004-05, giải tiếp tục diễn ra vào mùa 2005-06 với một thỏa thuận được thông qua bao gồm quy định về giới hạn lương. Vào năm 2009, NHL đón nhận lượng tài trợ, khán giả, và theo dõi trên truyền hình cao kỷ lục.[7]

Liên đoàn khúc côn cầu trên băng quốc tế [IIHF] coi Stanley Cup một trong "những chức vô địch quan trọng với môn thể thao này".[8] NHL thu hút nhiều vận động viên trên khắp thế giới với khoảng 20 quốc gia có cầu thủ thi đấu ở giải.[9] Người Canada chiếm lượng lớn cầu thủ, đồi thời tỉ lệ cầu thủ Mỹ và châu Âu gia tăng.

Đương kim vô địch NHL hiện tại là Colorado Avalanche, đội vượt qua Tampa Bay Lightning 4–2 với bốn trận thắng và một trận thua tai Chung kết Stanley Cup 2022.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu[sửa | sửa mã nguồn]

National Hockey League được thành lập năm 1917 với tư cách là tổ chức kế thừa National Hockey Association [NHA]. Được thành lập từ năm 1909, NHA có mùa giải đầu tiên vào năm 1910 với bảy đội tới từ Ontario và Québec, và là một trong những giải khúc côn cầu chuyên nghiệp đầu tiên. Tuy nhiên tới mùa giải thứ tám, một loạt các tranh chấp với chủ sở hữu của Toronto Blueshirts, ông Eddie Livingstone, khiến các ông chủ của Montreal Canadiens, Montreal Wanderers, Ottawa Senators, và Quebec Bulldogs tổ chức một cuộc thảo luận về tương lai của giải đấu.[10] Nhận ra rằng điều lệ của NHA không cho họ được phép loại Livingstone khỏi giải, bốn đội này nhất trí ngừng hoạt động của NHA, và vào ngày 26 tháng 11, 1917, thành lập National Hockey League. Frank Calder được bầu là chủ tịch đầu tiên, và giữ chức vụ này cho tới năm 1943.[11]

Đội Bulldogs không thể thi đấu, đố các ông chủ còn lại quyết định thành lập một đội mới ở Toronto, mang tên Toronto Arenas, để thi đấu với Canadiens, Wanderers và Senators.[12] Các trận đấu đầu tiên được tổ chức vào ngày 19 tháng 12, 1917.[13] Khi nhà thi đấu Montreal Arena bị thiêu rụi vào tháng 1 năm 1918, khiến đội Wanderers ngừng hoạt động,[14] NHL buộc phải tiếp tục với ba đội còn lại cho tới khi Bulldogs trở lại vào năm 1919.[15]

NHL thay thế NHA để trở thành một trong các giải đấu cạnh tranh Stanley Cup; thời điểm đó Stanley Cup đóng vai trò như một danh hiệu chung của các đội mạnh của các giải khúc côn cầu lớn toàn Bắc Mỹ. Toronto giành chức vô địch NHL đầu tiên, và sau đó Vancouver Millionaires của giải Pacific Coast Hockey Association [PCHA] tại Chung kết Stanley Cup 1918.[16] Đội Canadiens vô địch NHL vào năm 1919; tuy nhiên trận Stanley Cup Final với Seattle Metropolitans của PCHA bị hủy bỏ vì dịch cúm Tây Ban Nha.[17] Vào năm 1924 Montreal lần đầu vô địch Stanley Cup với tư cách thành viên của NHL.[18] Hamilton Tigers, giành chức vô địch regular season mùa 1924-25 nhưng từ chối thi đấu Championship Series trừ khi họ được thưởng thêm 200 đô la Canada.[19] NHL từ chối và tuyên bố Canadiens là đội vô địch sau khi đội này hạ gục Toronto St. Patricks [trước là đội Arenas] trong trận bán kết. Montreal sau đó thua Victoria Cougars của Western Canada Hockey League [WCHL] tại Chung kết Stanley Cup 1925. Đây là lần cuối cùng một đội không thuộc NHL vô địch Stanley Cup,[20] sau khi Stanley Cup trở thành chức vô địch NHL vào năm 1926 sau khi WCHL bị giải thể.[21]

National Hockey League bắt đầu công cuộc mở rộng vào thập niên 1920 với sự gia nhập của Montreal Maroons và Boston Bruins năm 1924. Đội Bruins là đội đầu tiên của Mỹ tham dự giải.[22] New York Americans bắt đầu thi đấu từ năm 1925 sau khi mua lại Hamilton Tigers, cùng một đội mới là Pittsburgh Pirates.[23] New York Rangers gia nhập năm 1926.[24] Chicago Black Hawks và Detroit Cougars [sau này đổi thành Red Wings] cũng gia nhập giải sau khi NHL mua lại WCHL.[25] Một tập đoàn mau lại Toronto St. Patricks vào năm 1927 và đổi tên đội thành Maple Leafs.[26]

Original Six[sửa | sửa mã nguồn]

Trận đấu NHL All-Star Game đầu tiên được tổ chức năm 1934 để gây quỹ cho Ace Bailey, một cầu thủ phải giải nghệ vì một pha chơi ác ý của Eddie Shore.[27] Trận đấu thứ hai diễn ra năm 1937 để ủng hộ cho gia đình của Howie Morenz sau khi anh mất vì chứng tắc mạch vành gây nên bởi chấn thương gãy chân mắc phải trong một trận đấu.[28]

Cuộc Đại khủng hoảng và sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai gây thiệt hại lớn cho giải đấu. Đội Pirates trở thành Philadelphia Quakers vào năm 1930, rồi giải thể một năm sau. Đội Senators tương tự cũng đổi tên thành St. Louis Eagles vào năm 1934, rồi cũng chỉ thi đấu một năm.[29] The Maroons did not survive, as they suspended operations in 1938.[30] New York Americans bị cấm thi đấu năm 1942 do thiếu cầu thủ và không còng tồn tại kể từ đó.[31]

Giải đấu giảm còn sáu đội vào mùa giải 1942-43: Boston Bruins, Chicago Black Hawks, Detroit Red Wings, Montreal Canadiens, New York Rangers và Toronto Maple Leafs. Sáu đội này giữ nguyên vẹn trong 25 năm, và được gọi là Original Six [Sáu đội nguyên gốc]. Giải đấu sau đó đạt thỏa thuận với ban ủy thác của Stanley Cup vào năm 1947 để giành được quyền kiểm soát danh hiệu này một cách trọn vẹn, giúp NHL loại bỏ lời đề nghị của các giải đấu khác muốn tranh cúp.[32]

Montreal Canadiens năm 1942

Maurice "Rocket" Richard trở thành người đầu tiên ghi 50 bàn một mùa giải 50 trận.[33] Richard sau đó đưa Canadiens tới năm chức vô địch liên tiếp từ 1956 tới 1960, một kỷ lục chưa bao giờ bị phá.[34] Willie O'Ree phá vỡ ngăn cách về màu da vào ngày 18 tháng 1 năm 1958 khi có màn ra mắt cho Boston Bruins và là cầu thủ da đen đầu tiên trong lịch sử NHL.[35]

Mở rộng hậu Original Six[sửa | sửa mã nguồn]

Tới giữa thập kỷ 1960, tham vọng về một hợp đồng truyền hình tại Hoa Kỳ, cùng lo ngại về việc Western Hockey League đang rục rịch tuyên bố sẽ trở thành một giải lớn và cạnh tranh cho Stanley Cup, buộc giải quyết định mở rộng lần đầu kể từ những năm 1920. Giải tẳng gấp đôi số đội từ mùa 1967-68 với sự góp mặt của Los Angeles Kings, Minnesota North Stars, Philadelphia Flyers, Pittsburgh Penguins, California Seals và St. Louis Blues.[36] Người hâm mộ Canada phẫn nộ vì cả sáu đội trên đều đến từ Mỹ,[37] và NHL làm dịu đam đông bằng việc thu nạp thêm Vancouver Canucks vào năm 1970 cùng với Buffalo Sabres, đội nằm trên biên giới Canada-Hoa Kỳ.[38] Hai năm sau, sự ra đời của World Hockey Association [WHA] dẫn tới sự gia nhập của New York Islanders và Atlanta Flames nhằm loại WHA khỏi các thị trường này.[39] In 1974, Washington Capitals và Kansas City Scouts trở thành các tân binh, nâng tổng số đội lên con số 18.[40]

National Hockey League phải cạnh tranh quyết liệt với WHA để giữ chân cầu thủ; họ mất 67 người sang giải đấu mới nổi vào mùa giải 1972-73,[41] trong đó có Bobby Hull, người ký hợp đồng 10 năm trị giá 2,5 triệu đô la với Winnipeg Jets, lớn nhất trong lịch sử hockey thời đó.[42] Giải đấu cố gắng ngăn chặn cuộc chạy trốn của các cầu thủ bằng luật pháp, nhưng vụ kiện ngược của WHA đã khiến thẩm phán Philadelphia ra phán quyết rằng luật reserve clause [luật ngăn cầu thủ ký hợp đồng với đội khác] của NHL là trái luật, do đó chấm dứt sự độc quyền của NHL đối với cầu thủ.[43] Tuy nhiên bảy năm cạnh tranh về cầu thủ và thị trường đã gây thiệt hại đáng kể về tài chính tới cả hai giải, dãn tới việc sáp nhập vào năm 1979 trong đó WHA sẽ ngừng hoạt động còn NHL đón nhận Winnipeg Jets, Edmonton Oilers, Hartford Whalers và Quebec Nordiques.[44] Các ông chủ lúc đầu phủ quyết thỏa thuận sáp nhập với cách biệt giữa các bên ủng hộ và phản đối khi bỏ phiếu là một phiếu nghiêng về phía phản đối. Tuy nhiên cuộc tẩy chay rầm rộ các sản phẩm của Molson Brewery của các fan ở Canada khiến Montreal Canadiens, đội do Molson sở hữu, thay đổi quyết định, cùng với đó là Vancouver Canucks tiếp bước. Ở lần bỏ phiếu thứ hai kế hoạch sáp nhập được thông qua.[45]

Wayne Gretzky thi đấu một mùa tại giải WHA cho đội Indianapolis Racers [8 trận] và đội Edmonton Oilers [72 trận] trước khi Oilers gia nhập National Hockey League vào mùa 1979-80.[46] Gretzky sau đó tiếp tục đưa Oilers tới với bôn chức vô địch Stanley Cup năm 1984, 1985, 1987 và 1988, đồng thời thiết lập các kỷ lục về số bàn thắng trong một mùa [92 mùa 1981-82], kiến tạo [163 mùa 1985-86] và điểm [215 mùa 1985-86], kỷ lục số bàn thắng [894], kiến tạo [1.963] và điểm [2.857] trong suốt sự nghiệp.[46] Ông được trao đổi sang Kings vào năm 1988, giúp giải đấu thu hút sự chú ý ở Hoa Kỳ, và là động lực thúc đẩy quá trình mở rộng trong thập niên 1990 với chín đội mới: San Jose Sharks, Tampa Bay Lightning, Ottawa Senators, Mighty Ducks of Anaheim, Florida Panthers, Nashville Predators, Atlanta Thrashers [nay là Winnipeg Jets], và vào năm 2000 là Minnesota Wild và Columbus Blue Jackets.[47] Vào ngày 21 tháng 7, 2015, NHL xác nhận đã nhận đơn đăng ký của các tập đoàn sở hữu giàu có ở Thành phố Québec và Las Vegas đối với việc mở rộng số đội,[48] và vào ngày 22 tháng 6, 2016, ủy viên NHL ông Gary Bettman thông báo về việc sẽ có thêm đội thứ 31, Vegas Golden Knights, tại NHL từ mùa giải 2017-18.[49] Vào tháng 12 năm 2018, giải thông báo sẽ có thêm đội thứ 32 có trụ sở ở Seattle Kraken từ mùa 2021-22.[50]

Các vấn đề lao động[sửa | sửa mã nguồn]

Đã có bốn cuộc đình công toàn giải đấu trong lịch sử NHL, đều bắt đầu kể từ mùa 1992.

Cuộc đình công đầu tiên do National Hockey League Players' Association khởi phát vào tháng 4 năm 1992 kéo dài 10 ngày, tuy nhiên moi chuyện được dàn xếp nhanh chóng còn các trận đấu bị hủy được lên lịch lại.[51]

Một cuộc dừng công [lockout] đầu mùa giải 1994-95 buộc giải đấu giảm số trận từ 84 xuống còn 48, theo đó các đội sẽ chỉ thi đấu các trận với các đội cùng miền [conference].[51] Tuy vậy thỏa thuận mới mang tên NHL Collective Bargaining Agreement [CBA / Thỏa thuận Thương lượng Tập thể] được thiết lập dành cho các hoạt động đối thoại lại vào năm 1998 và gia hạn tới ngày 15 tháng 9, 2004.[52]

Do thỏa thuận hết hạn vào ngày 15 tháng 9, 2004, trưởng ban điều hành giải Gary Bettman thông báo sẽ có một cuộc lockout nữa của hiệp hội các cầu thủ đồng thời đóng cửa trụ sở NHL.[52] Giải đấu hứa sẽ thiết lập một điều khoản mà họ gọi là "cost certainty" [độ tin cậy về chi phí] dành cho tất cả các đội, tuy nhiên Players' Association cho rằng thay đổi này chẳng qua chỉ là một tấm bình phong cho việc giới hạn lương [salary cap], điều mà ngay từ đầu hiệp hội cầu thủ không bao giờ chấp nhận. Vụ dừng công khiến giải đấu gián đoạn trong 310 ngày, dài nhất trong lịch sử thể thao, còn NHL trở thành giải thể thao chuyên nghiệp đầu tiên mất nguyên cả mùa giải.[52] Một thỏa thuận CBA mới được thông qua vào tháng 7 năm 2005, kèm theo trong đó một salary cap. Thỏa thuận có thời hạn sáu năm với điều khoản gia hạn thỏa thuận CBA thêm một năm khi thời hạn thỏa thuận kết thúc, cho phép giải được bắt đầ trở lại từ mùa 2005-06.[52]

Vào ngày 5 tháng 10, 2005, mùa giải đầu tiên hậu lockout diễn ra với 30 đội. NHL đón nhận lượng khán giả kỷ lục mùa 2005–06: trung bình 16.955 một trận.[53] Khán giả truyền hình của giải có phần không cao như mong đợi do đài truyền hình cáp ESPN của Mỹ quyết định không phát khúc côn cầu nữa.[54] Một hợp đồng mới với NBC giúp giải được quyền thu một phần lợi nhuận từ việc quảng cáo trong mỗi trận. Lợi nhuận hàng năm của giải ước tính 2,27 tỉ đô la.[54]

Vào nửa đêm ngày 16 tháng 9, 2012, thỏa thuận lao động hết hạn, và giải tiếp tục tạm dừng thi đấu.[55] Các ông chủ đề nghị giảm tỉ lệ chia phần dành cho các cầu thủ từ số tiền thu về liên quan tới hockey từ 57 phần trăm xuống 47 phần trăm.[56] Tất cả các trận đấu bị hoãn tới 14 tháng 1, 2013, cùng với đó là các trận NHL Winter Classic 2013 và NHL All-Star Weekend 2013.[57][58][59][60] Các bên đạt một thỏa thuận sơ bộ vào ngày 6 tháng 1, 2013 về một hợp đồng mười năm.[61] Vào ngày 12 tháng 1, giải đấu và hiệp hội cầu thủ ký một bản ghi nhớ đồng ý về hợp đồng mới, qua đó cho phép các đội bắt đầu tập luyện trở lại từ 13 tháng 1, và mùa giải sẽ chỉ còn 48 trận bắt đầu từ ngày 19 tháng 1.[62]

Vấn đề an toàn cho cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Việc đảm bảo an toàn cho cầu thủ trở thành vấn đề lớn và chấn động não [concussion], gây nên do va chạm cực mạnh vào vùng đầu, là mỗi đe dọa lớn nhất. Các nghiên cứu gần đây cho thấy chấn động não có thể ảnh hưởng và giảm thiểu chất lượng cuộc sống như thế nào tới các cầu thủ sau khi họ nghỉ thi đấu. Chấn động não trở thành chủ đề nóng mỗi khi các cuộc tranh cãi về an toàn cho vận động viên nổ ra. Quả thực chấn thương này có tác động không nhỏ lên giải đấu mỗi khi các cầu thủ hàng đầu bị buộc nghỉ thi đấu, ví dụ như Sidney Crosby phải ngồi ngoài 10 tháng rưỡi, ảnh hưởng mạnh tới tính thị trường của giải đấu.[63] Vào tháng 12 năm 2009, Brendan Shanahan được đưa lên để thay thế Colin Campbell và đảm nhận vị trí phó chủ tịch về công tác an toàn cho vận động viên. Shanahan bắt đầu đưa ra các án phat nặng đối với các "hung thần" chuyên tung ra các pha cản phá nguy hiểm, ví dụ như Raffi Torres bị cấm 25 trận vì tông vào người Marian Hossa.[64]

Nhằm hỗ trợ cho việc loại bỏ các pha va chạm ở tốc độ cao trong các tình huống icing có thể dẫn tới các chấn thương hủy hoại sự nghiệp, tiêu biểu là hậu vệ Joni Pitkanen của Hurricanes, giải yêu cầu sử dụng hybrid no-touch icing [icing không va chạm] từ mùa 2013–14.[65]

Vào ngày 25 tháng 11, 2013, mười cựu cầu thủ [Gary Leeman, Rick Vaive, Brad Aitken, Darren Banks, Curt Bennett, Richie Dunn, Warren Holmes, Bob Manno, Blair Stewart và Morris Titanic] kiện NHL vì sự thiếu quan tâm tới việc bảo vệ cầu thủ khỏi các chấn thương não. Vụ kiện này diễn ra ba tháng sau khi National Football League của bóng bầu dục đồng ý trả các cầu thủ của họ 765 triệu đô la tiền bồi thường.[66]

Phụ nữ trong NHL[sửa | sửa mã nguồn]

Từ 1952 tới 1955, Marguerite Norris đóng vai trò là chủ tịch Detroit Red Wings. Bà là nữ giám đốc NHL đầu tiên và là phụ nữ đầu tiên có tên khắc trên cúp Stanley. Năm 1992, Manon Rheaume trở thành phụ nữ đầu tiên thi đấu một trận tại bất kỳ một giải đấu thể thao chuyên nghiệp lớn của Bắc Mỹ, trong vai trò là thủ môn cho Tampa Bay Lightning trong một trận đấu khởi động trước mùa giải NHL với đội St. Louis Blues, chặn được bảy trên chín pha đánh cầu của đối phương.[67][68] Vào năm 2016, Dawn Braid trở thành huân luyện viên chuyên về trượt băng của Arizona Coyotes, qua đó là người nữ đầu tiên làm huấn luyện viên tòa thời gian tại NHL.[69]

Bộ máy tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Ban quản lý[sửa | sửa mã nguồn]

Ban quản lý [Board of Governors] là cơ quan quản lý National Hockey League. Mỗi đội sẽ chỉ định một nhà quản lý [Governor] [thường là chủ sở hữu câu lạc bộ], và hai người đóng vai trò dự khuyết lên ban quản lý. Chủ tịch hiện tại của Ban quản lý là chủ sở hữu Boston Bruins, Jeremy Jacobs. Ban quản lý thành lập các chính sách của giải, và duy trì luật lệ. Một số trách nhiệm khác của Ban quản lý gồm có:[70]

  • xem xét và chấp thuận các thay đổi về luật khúc côn cầu trên băng.
  • thuê và sa thải đặc ủy viên [commissioner].
  • xem xét và chấp thuận việc mua, bán, hoặc thay đổi trụ sở của các câu lạc bộ.
  • xem xét và chấp thuận quỹ lương của các câu lạc bộ.
  • xem xét và chấp thuận các thay đổi về lịch thi đấu.

Ban quản lý họp hai lần một năm vào tháng 6 và tháng 12.

Giám đốc điều hành[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng giám đốc điều hành của giải là Đặc ủy viên Gary Bettman. Một vài chức vụ có tiếng nói dưới quyền của đặc ủy viên bao gồm:

  • Phó ủy viên & Giám đốc pháp chế: Bill Daly
  • Executive VP & Giám đốc tài chính: Craig Harnett
  • Chief Operating Officer: Steve McArdle
  • Executive VP & Chỉ đạo các hoạt động Operations: Colin Campbell
  • NHL Enterprises: Ed Horne
  • Phó chủ tịch về an toàn vận động viên: George Parros[71]

Các đội thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

NHL bao gồm 32 đội, 25 của Hoa Kỳ và 7 của Canada. NHL chia 32 đội thành hai khu vực hay miền [conference]: Eastern Conference [Đông] và Western Conference [Tây]. Mỗi khu vực được chia thành hai hạng đấu [division]: Eastern Conference gòm 16 đội [8 đội/hạng], còn Western Conference có 16 đội [8 đội ở Central Division và 8 đội ở Pacific Division]. Cấu trúc hiện tại áp dụng từ mùa 2021-22.

Số đội NHL duy trì ở con số 30 từ mùa 2000–01 sau khi Minnesota Wild và Columbus Blue Jackets trở thành tân binh, cho tới năm 2017. Việc gia tăng thêm hai đội trên khép lại thời kỳ mở rộng cũng như thay đổi trụ sở chính và tên gọi trong thập niên 1990 khi NHL thêm 9 đội để nâng tổng số đội từ 21 lên 30, và sự dịch chuyển của bốn câu lạc bộ, chủ yếu từ các thành phố nhỏ miền bắc [như Hartford, Québec] tới các độ thị lớn miền nam ấm áp hơn [Dallas, Phoenix]. Giải không mất đi bất kỳ câu lạc bộ nào kể từ khi Cleveland Barons giải thể năm 1978. Sau 17 năm giải gia tăng thêm số đội lên 31[72] to với sự xuất hiện của Vegas Golden Knights[49] cũng như đã chấp nhận một đội thứ 32 đến từ Seattle Kraken kể từ mùa 2021-22.[50][73]

Theo Forbes, năm 2018, năm đội có giá trị lớn nhất giải đều nằm trong nhóm "Original Six": New York Rangers khoảng 1,55 tỉ đô la Mỹ, Toronto Maple Leafs là 1,45 tỉ đô la, Montreal Canadiens là 1,3 tỉ đô la, Chicago Blackhawks là 1,05 tỉ đô, và Boston Bruins là 925 triệu đô la. Ít nhất tám câu lạc bộ của NHL thu về lợi nhuận âm. Các đội NHL không bị ảnh hưởng bởi tỉ giá đô la Canada–đô la Mỹ: lợi nhuận từ vé, quảng cáo trên toàn quốc và địa phương ở Canada, cùng với bản quyền truyền thông ở Canada được thu về bằng đồng đô la Canada, tuy nhiên lương cầu thủ được trả bằng USD bất kể đội đó đến từ quốc gia nào.[74]

Danh sách các đội[sửa | sửa mã nguồn]

Hạng đấu Đội Thành phố Sân Sức chứa Thành lập Gia nhập Tổng giám đốc [GM] Huấn luyện viên trưởng Đội trưởng Eastern ConferenceAtlanticMetropolitanWestern ConferenceCentralPacific
Boston Bruins Boston, Massachusetts TD Garden 17.565 1924 Don Sweeney Bruce Cassidy Zdeno Chara
Buffalo Sabres Buffalo, New York KeyBank Center 19.070 1970 Jason Botterill Trống Jack Eichel
Detroit Red Wings Detroit, Michigan Little Caesars Arena 19.515 1926 Steve Yzerman Jeff Blashill Trống
Florida Panthers Sunrise, Florida BB&T Center 19.250 1993 Dale Tallon Joel Quenneville Aleksander Barkov
Montreal Canadiens Montréal, Québec Bell Centre 21.302 1909 1917 Marc Bergevin Claude Julien Shea Weber
Ottawa Senators Ottawa, Ontario Canadian Tire Centre 17.373 1992 Pierre Dorion Marc Crawford Trống
Tampa Bay Lightning Tampa, Florida Amalie Arena 19.092 1992 Julien BriseBois Jon Cooper Steven Stamkos
Toronto Maple Leafs Toronto, Ontario Scotiabank Arena 18.819 1917 Kyle Dubas Mike Babcock Trống
Carolina Hurricanes Raleigh, North Carolina PNC Arena 18.680 1972 1979* Don Waddell Rod Brind'Amour Justin Williams
Columbus Blue Jackets Columbus, Ohio Nationwide Arena 18,144 2000 Jarmo Kekalainen John Tortorella Nick Foligno
New Jersey Devils Newark, New Jersey Trung tâm Prudential 16.514 1974* Ray Shero John Hynes Andy Greene
New York Islanders Thành phố New York, New York
Elmont, New York
UBS Arena 15.795 1972 Lou Lamoriello Barry Trotz Anders Lee
New York Rangers Thành phố New York, New York Madison Square Garden 18.006 1926 Jeff Gorton David Quinn Trống
Philadelphia Flyers Philadelphia, Pennsylvania Wells Fargo Center 19.500 1967 Chuck Fletcher Alain Vigneault Claude Giroux
Pittsburgh Penguins Pittsburgh, Pennsylvania PPG Paints Arena 18.387 1967 Jim Rutherford Mike Sullivan Sidney Crosby
Washington Capitals Washington, D.C. Capital One Arena 18.506 1974 Brian MacLellan Todd Reirden Alexander Ovechkin
Arizona Coyotes Glendale, Arizona Gila River Arena 17.125 1972 1979* John Chayka Rick Tocchet Oliver Ekman-Larsson
Chicago Blackhawks Chicago, Illinois Trung tâm United 19.717 1926 Stan Bowman Jeremy Colliton Jonathan Toews
Colorado Avalanche Denver, Colorado Ball Arena 18.007 1972 1979* Joe Sakic Jared Bednar Gabriel Landeskog
Dallas Stars Dallas, Texas Trung tâm American Airlines 18.532 1967* Jim Nill Jim Montgomery Jamie Benn
Minnesota Wild Saint Paul, Minnesota Xcel Energy Center 17.954 2000 Paul Fenton Bruce Boudreau Mikko Koivu
Nashville Predators Nashville, Tennessee Bridgestone Arena 17.113 1998 David Poile Peter Laviolette Roman Josi
St. Louis Blues St. Louis, Missouri Enterprise Center 18.724 1967 Doug Armstrong Craig Berube Alex Pietrangelo
Winnipeg Jets Winnipeg, Manitoba Bell MTS Place 15,321 1999* Kevin Cheveldayoff Paul Maurice Blake Wheeler
Anaheim Ducks Anaheim, California Honda Center 17.174 1993 Bob Murray Bob Murray Ryan Getzlaf
Calgary Flames Calgary, Alberta Scotiabank Saddledome 19.289 1972* Brad Treliving Bill Peters Mark Giordano
Edmonton Oilers Edmonton, Alberta Rogers Place 18,347 1972 1979 Keith Gretzky Ken Hitchcock Connor McDavid
Los Angeles Kings Los Angeles, California Crypto.com Arena 18.230 1967 Rob Blake Todd McLellan Anze Kopitar
San Jose Sharks San Jose, California SAP Center 17.562 1991 Doug Wilson Peter DeBoer Joe Pavelski
Seattle Kraken Seattle, Washington Climate Pledge Arena 17.072 2021
Vancouver Canucks Vancouver, British Columbia Rogers Arena 18.910 1945 1970 Jim Benning Travis Green Trống
Vegas Golden Knights Paradise, Nevada T-Mobile Arena 17.356 2017 Kelly McCrimmon Gerard Gallant Trống

Tương lai[sửa | sửa mã nguồn]

Hạng đấu Đội Thành phố Sân Sức chứa Thành lập Gia nhập Tổng giám đốc Huấn luyện viên Đội trưởng Pacific
Seattle Kraken Seattle, Washington Climate Pledge Arena 2021
Ghi chú

  1. Dấu sao [*] nghĩa là từng đổi tên và địa điểm.
  2. Edmonton Oilers, Hartford Whalers [nay là Carolina Hurricanes], Quebec Nordiques [nay là Colorado Avalanche], và Winnipeg Jets nguyên gốc [nay là Arizona Coyotes] gia nhập NHL năm 1979 trong sáp nhập NHL-WHA.

Dòng thời gian[sửa | sửa mã nguồn]

Thể thức[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi trận đấu National Hockey League kéo dài 60 phút. Một trận đấu gồm ba hiệp, mỗi hiệp 20 phút và có thời gian nghỉ giữa các hiệp.[75] Sau khi thời gian chính thức của trận đấu kết thúc, đội ghi nhiều bàn thắng hơn là đội chiến thắng. Nếu trận đấu hòa, hai đội thi đấu hiệp phụ. Trong mùa giải chính [regular season], thời gian hiệp phụ kéo dài năm phút, theo thể thức 3 đấu 3, ai ghiu bàn trước thắng chung cuộc.

Nếu trận đấu vẫn hòa sau khi hiệp phụ, trận đấu bước vào loạt luân lưu. Ba cầu thủ của mỗi đội lần lượt thực hiện cú đánh phạt penalty. Đội ghi nhiều bàn hơn trong loạt đánh này sẽ là đội thắng. Nếu trận đấu vẫn hòa sau ba lượt đánh đầu tiên, loạt đánh tiếp tục diễn ra cho tới khi trong một lượt có một đội đánh hỏng còn đội còn lại đánh vào. Đội nào thắng chung cuộc trong loạt đánh phạt penalty được thêm một điểm trong tỉ số chung cuộc và giành được thêm hhai điểm trên bảng xếp hạng. Đội thua trong hiệp phụ hoặc penalty chỉ được một điểm.[76] Bàn thắng và pha cản phá thành công trong loạt penalty không được tính vào thống kê chung của các cầu thủ;các thành tích này được thống kê riêng.

Tại giai đoạn playoff của mùa giải người ta không tổ chức đánh penalty. Thay vào đó các đội sẽ thi đấu nhiều hiệp phụ, mỗi hiệp 20 phút 5 đánh 5 cho tới khi có đội ghi bàn. Kỷ lục hiện tại trong lịch sử là sáu hiệp phụ trong một trận đấu.[77] Trong thời gian hiệp phụ playoff, quãng nghỉ duy nhất là thời gian lau dọn sân băng trong hiệp phụ đầu tiên [khi hiệp đấu diễn ra được hơn một nửa thời gian].[78]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Dù Montreal Canadiens có 24 chức vô địch Stanley Cup trong lịch sử, Stanley Cup lại không phải là cúp vô địch NHL. Trước 1926, đây là giải vô địch inter-league. Canadiens giành một Stanley Cup trước khi NHL thành lập [vào năm 1916 khi là thành viên của National Hockey Association], và 23 Stanley Cup khi là thành viên của NHL. Montréal cũng giành ngôi vô địch NHL hai lần khi họ không giành Stanley Cup: vào mùa 1918–19 khi cúm Tây Ban Nha khiến chung kết gặp Seattle Metropolitans của Pacific Coast Hockey Association bị hủy và mùa 1924–25 khi họ thua Victoria Cougars của Western Canada Hockey League. Do đó đội có tổng cộng chức 25 vô địch NHL.
  2. ^ Vì Rogers Media đơn vị giữ bản quyền duy nhất ở Canada, Rogers từng trao quyền một số trận cho CBC và TVA Sports.

Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Coleman, Charles [1966–1969]. “Trail of the Stanley Cup, vols. 1–3”. National Hockey League. ISBN 0-8403-2941-5.
  • Jenish, D'Arcy [2008]. The Montreal Canadians: 100 Years of Glory. Doubleday Canada. ISBN 978-0-385-66324-3.
  • Holzman, Morey; Nieforth, Joseph [2002]. Deceptions and Doublecross: How the NHL Conquered Hockey. Toronto, ON: Dundurn Press. ISBN 1-55002-413-2.
  • McFarlane, Brian [1997]. Brian McFarlane's History of Hockey. Champaign, IL: Sports Publishing Inc. ISBN 1-57167-145-5.
  • McKinley, Michael [2006]. Hockey: A People's History. McClelland & Stewart. ISBN 0-7710-5769-5.
  • National Hockey League [2005]. “2005–06 NHL Official Rules”. NHL.com. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2006.
  • Pincus, Arthur [2006]. The Official Illustrated NHL History. Readers Digest. ISBN 0-88850-800-X.
  • Podnieks, Andrew; Szemberg, Szymon [2007]. World of hockey: celebrating a century of the IIHF. Fenn Publishing. ISBN 9781551683072.
  • Sandor, Steven [2005]. The Battle of Alberta: A Century of Hockey's Greatest Rivalry. Heritage House. ISBN 1-894974-01-8. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016.
  • Wong, John Chi-Kit [2005]. Lords of the Rinks. University of Toronto Press. ISBN 0-8020-8520-2.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Kreiser, John [ngày 25 tháng 11 năm 2017]. “NHL turns 100 years old”. National Hockey League. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2018.
  2. ^ “Rosters, Arena Information, and Aerial Maps – NHL.com – Teams”. National Hockey League. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ Marsh, James [2006]. “National Hockey League”. The Canadian Encyclopedia. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2006.
  4. ^ “NHL.com – Stanley Cup Fun Facts”. National Hockey League. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2006.
  5. ^ The National Hockey League Official Record Book & Guide 2009 77th Edition, p. 9. New York: National Hockey League [2008]
  6. ^ Todd, Jack [ngày 17 tháng 9 năm 2012]. “Americans and Bettman have stolen Canada's game”. Calgary Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2018.
  7. ^ Eichelberger, Curtis [ngày 29 tháng 5 năm 2009]. “NHL Borrows From NFL as It Pursues Bigger TV Contract”. Bloomberg L.P. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2009.
  8. ^ Podnieks, Andrew [ngày 25 tháng 3 năm 2008]. “Triple Gold Goalies... not”. International Ice Hockey Federation. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2017.
  9. ^ “QuantHockey.com”. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012.
  10. ^ McFarlane 1997, tr. 15–16
  11. ^ Holzman & Nieforth 2002, tr. 159
  12. ^ McKinley 2006, tr. 77
  13. ^ Jenish, D'Arcy [2013]. The NHL: 100 years of on-ice action and boardroom battles. Doubleday Canada. tr. 16. ISBN 0385671466.
  14. ^ McFarlane, Brian. “Early Leagues and the Birth of the NHL”. National Hockey League. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  15. ^ Pincus 2006, tr. 24
  16. ^ Holzman & Nieforth 2002, tr. 197
  17. ^ Pincus 2006, tr. 23
  18. ^ Sandor 2005, tr. 33
  19. ^ Pincus 2006, tr. 35
  20. ^ “Victoria Cougars—1924–25 Stanley Cup”. Legends of Hockey. Hockey Hall of Fame. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  21. ^ Sandor 2005, tr. 35
  22. ^ “The History of the Hub of Hockey”. Boston Bruins Hockey Club. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2008.
  23. ^ Holzman & Nieforth 2002, tr. 262
  24. ^ Pincus 2006, tr. 33
  25. ^ Pincus 2006, tr. 29
  26. ^ Pincus 2006, tr. 39
  27. ^ Pincus 2006, tr. 47
  28. ^ McKinley 2006, tr. 120
  29. ^ McFarlane 1990, tr. 33
  30. ^ McFarlane 1990, tr. 37
  31. ^ McFarlane 1990, tr. 43
  32. ^ Diamond, Dan; Zweig, Eric; Duplacey, James [2003]. The Ultimate Prize: The Stanley Cup. Andrews McMeel Publishing. tr. 40. ISBN 0-7407-3830-5.
  33. ^ “The Legends—Rocket Richard”. Hockey Hall of Fame. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
  34. ^ Pincus 2006, tr. 100
  35. ^ “Players—Willie O'Ree”. Hockey Hall of Fame. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
  36. ^ Diamond 1991, tr. 175
  37. ^ McKinley 2006, tr. 194–195
  38. ^ McFarlane 1990, tr. 106–107
  39. ^ Boer 2006, tr. 13
  40. ^ McFarlane 1990, tr. 115
  41. ^ McFarlane 1990, tr. 113
  42. ^ Willes 2004, tr. 33
  43. ^ McFarlane 1990, tr. 133
  44. ^ Willes 2004, tr. 214
  45. ^ Willes 2004, tr. 251
  46. ^ a b “The Legends—Wayne Gretzky”. Hockey Hall of Fame. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
  47. ^ “Edmonton's Saddest Hockey Day—The Gretzky Trade”. Edmonton Oilers Heritage Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
  48. ^ “Update on NHL expansion application process”. National Hockey League. ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2015.
  49. ^ a b Rosen, Dan [ngày 22 tháng 6 năm 2016]. “Las Vegas awarded NHL franchise”. NHL.com. NHL Enterprises, L.P. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2018.
  50. ^ a b Rosen, Dan [ngày 4 tháng 12 năm 2018]. “Seattle NHL expansion approved by Board of Governors”. NHL.com. NHL Enterprises, L.P. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2018.
  51. ^ a b CBC Sports [ngày 29 tháng 1 năm 2004]. “We've been here before”. Canadian Broadcasting Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2006.
  52. ^ a b c d audohar, Paul D. [tháng 12 năm 2005]. “The hockey lockout of 2004–05” [PDF]. Monthly Labor Review.
  53. ^ Molinaro, John [ngày 20 tháng 4 năm 2006]. “A season to remember”. Canadian Broadcasting Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2006.
  54. ^ a b “Super Bowl XLII versus the Economy”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2008.
  55. ^ “On ice: NHL locks out its players”. CBS News. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
  56. ^ Strang, Katie [ngày 16 tháng 9 năm 2012]. “NHL imposes league-wide lockout”. ESPNNewYork.com. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
  57. ^ “NHL announces cancellation of 2012–13 regular-season schedule through January 14”. National Hockey League. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2012.
  58. ^ “NHL cancels 2013 Winter Classic”. NBC News. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2012.
  59. ^ “NHL cancels games through Dec. 14, All-Star game”. CBS News. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2012.
  60. ^ “NHL Announces Game Cancellations Through Dec. 30”. The Sports Network. The Canadian Press. ngày 10 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  61. ^ “NHL OWNERS TO VOTE ON CONTRACT WEDNESDAY”. Associated Press. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2013.
  62. ^ “NHL, players finalize agreement, camps can open Sunday”. Detroit Free Press. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2013.
  63. ^ Josh Hargreaves [ngày 5 tháng 9 năm 2013]. “Crosby discusses lengthy recovery road from concussions, safety of the game”. The Globe and Mail. Toronto. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
  64. ^ “Video: Brendan Shanahan Explains Raffi Torres' 25 Game Suspension « CBS Chicago”. Chicago.cbslocal.com. ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
  65. ^ Wyshynski, Greg [ngày 30 tháng 9 năm 2013]. “NHL players approve hybrid icing, as safety trumps subjectivity | Puck Daddy”. Yahoo! Sports. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
  66. ^ “Former NHL players sue league over concussions”. The Sports Network. ngày 25 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2014.
  67. ^ “Part 1: Manon Rhéaume shatters hockey's gender barrier”. National Hockey League.
  68. ^ “Manon Rheaume”.
  69. ^ Bieler, Des. “NHL's first female full-time coach hired by Arizona Coyotes”. The Washington Post. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2016.
  70. ^ McGran, Kevin [ngày 6 tháng 6 năm 2009]. “NHL's secret constitution revealed”. Toronto Star. Toronto. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2011.
  71. ^ //www.nhl.com/news/george-parros-to-head-department-of-player-safety-focus-on-slashing/c-290910754
  72. ^ Heitner, Darren [ngày 22 tháng 6 năm 2016]. “The NHL Leads the Way in Bringing Pro Sports to Las Vegas”. Inc. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016.
  73. ^ Baker, Geoff [ngày 3 tháng 12 năm 2018]. “After years of trying and a cast of characters in between, the NHL will finally put a team in Seattle”. The Seattle Times. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2018.
  74. ^ Cowan, Stu; January 29, Montreal Gazette Updated; 2015 [ngày 30 tháng 1 năm 2015]. “Falling dollar boosts salaries for P.K. Subban and other NHL players on Canadian teams | Montreal Gazette” [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2019.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả [liên kết]
  75. ^ “Time of match”. National Hockey League. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2000. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2006.
  76. ^ Fitzpatrick, Jamie. “How the NHL Shootout Works”. About.com. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2008.
  77. ^ “Oh, what a night... and morning. Stars-Canucks ranks sixth among longest OT games”. Sports Illustrated. ngày 12 tháng 4 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2007.
  78. ^ Clement, Bill [2008]. “Playoff overtime format needs change”. NBC Sports. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2008.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trang web chính thức [Di động]
  • NHL Player's Association [NHLPA]
  • NHL Officials Association website

50 thủ môn vĩ đại nhất trong lịch sử NHL

0 trên 50

    Thủ môn là một giống chó khác.

    Hãy để đối mặt với nó, bạn đã phải khác biệt để chơi vị trí độc đáo nhất trong tất cả các môn thể thao. Nhưng như lập dị hoặc kỳ quặc như một số thủ môn có thể, tất cả họ đều chia sẻ một đặc điểm chung của lòng can đảm cạnh tranh. & nbsp; Rốt cuộc, chính khái niệm ngăn chặn một đĩa cao su lưu hóa di chuyển với tốc độ vượt quá 100 dặm / giờ xác định sự thiếu sợ hãi.

    Đó là một phép lạ là không ai đã mất mạng khi chơi vị trí này, đặc biệt là trong thời đại mà thiết bị thủ môn có đặc tính bảo vệ của các tấm bìa cứng soggy.

    Vị trí trong và bản thân nó cũng là duy nhất ở chỗ nó thường là thẻ hoang dã cho phương trình cạnh tranh, đặc biệt là trong vòng playoffs. Nó có thể một mình quyết định kết quả của trò chơi tốt hơn hoặc tồi tệ hơn, chống lại bất kỳ kẻ thù hoặc chiến lược nào.

    Vì vậy, trong việc xếp hạng các thủ môn này, tôi thấy rằng việc xác định sự vĩ đại ở những người đàn ông này cũng là một thách thức rất khác.

    Rốt cuộc, những gì bạn đủ điều kiện để trở nên tuyệt vời? Giải vô địch? Số liệu thống kê? Thành tựu cá nhân?

    Trong một môn thể thao có lịch sử lâu đời như vậy và nhiều thời đại chơi khác nhau, điều đó thật dễ dàng. Tất nhiên, lý do là nhiều người sẽ không đồng ý với danh sách này, do khó khăn trong việc đánh giá vị trí này.

    Cho dù bạn đồng ý hay không đồng ý với bất kỳ lựa chọn nào, tôi hy vọng bạn thích đọc nhiều như tôi đã thích viết nó.

    Ở đây là 50 thủ môn vĩ đại nhất trong lịch sử NHL.

50. Jose Theodore

1 trong 50

    Bruce Bennett/Getty Images

    Trong quá trình viết bài viết này, ít nhất 10 người chơi khác nhau đã chiếm vị trí thứ 50 ở điểm này hay điểm khác. & NBSP; Marc-Andre Fleury, & NBSP; Tên xứng đáng được đề cập.

    Thật kỳ lạ, vị trí này là khó khăn nhất để đóng cửa trong danh sách này, nhưng Jose Theodore xứng đáng với vị trí này.

    Đăng một tỷ lệ phần trăm tiết kiệm .931 trong mùa giải 2001-2002, Theodore đã ủng hộ Montreal Canadiens vào một kỷ lục 36-31-12. Trò chơi xuất sắc của anh ấy vào cuối mùa giải đã tạo ra sự đột biến của Montreal đã đưa Canadiens trở lại vòng playoffs lần đầu tiên kể từ năm 1998.

    Theodore đã vượt qua Patrick Roy cho Vezina và giành được Hart, mặc dù trung bình 1,94 bàn thắng của St. Patrick và chín lần đóng cửa trong mùa giải thông thường.

    Chiến thắng Vezina dựa trên sức mạnh của phiếu bầu đầu tiên, Theodore gia nhập Công ty hiếm hoi với tư cách là một thủ môn đã giành được cả hai danh hiệu Vezina và Hart trong cùng một năm. & NBSP;

    Tuy nhiên, sự nghiệp của anh không sống theo tiêu chuẩn đó, tuy nhiên, vì chấn thương và sự không nhất quán đã làm hỏng sự nghiệp sau khi khóa. & NBSP;

    Bên trong các con số: 1 Hart Trophy, 1 Vezina Trophy, 1 Roger Crozier Trophy, 1 Masterton Trophy, 2 All-Star Games: 1 Hart trophy, 1 Vezina trophy, 1 Roger Crozier trophy, 1 Masterton trophy, 2 All-Star games

49. Phường Cam

2 trên 50

    Rob Carr/Getty Images

    Cam Ward bước vào NHL vào năm 2005, và không lãng phí thời gian để tạo ra một tác động ngay lập tức cho cơn bão Carolina của mình. Ward là sự khác biệt trong năm thứ hai của anh ấy sau khi các cơn bão giảm 2-0 trước Montreal Canadiens ở tứ kết Hội nghị Đông.

    Đằng sau vở kịch xuất sắc của mình, những cơn bão đã biến những chiếc bàn trước khi chuyển sang đối mặt với Quỷ New Jersey và Martin Brodeur. Cam Ward đã mang các cơn bão đến Chung kết Stanley Cup, trở thành thủ môn tân binh đầu tiên làm điều đó kể từ Patrick Roy vào năm 1986.

    Giành chiến thắng 15 trận playoff với tư cách là một tân binh, Cam Ward cũng trở thành thủ môn tân binh đầu tiên giành chiếc cúp Conn Smythe với tư cách là một tân binh kể từ Ron Hextall năm 1987.

    Mặc dù chiến thắng Stanley Cup cho các cơn bão mở rộng có thể là một khởi đầu tuyệt vời cho Ward, anh ấy đã thực hiện các trận playoffs chỉ một lần kể từ đó.

    Bên trong số: 1 Stanley Cup, 1 Conn Smythe.: 1 Stanley Cup, 1 Conn Smythe.

    Điều khiến anh ta khác biệt: & NBSP; Lịch thứ hai của Cam Ward trong NHL đã cho anh ta tham gia Elite của khúc côn cầu, giành được Conn Smythe và Stanley Cup năm 2006.: Cam Ward's second calender year in the NHL had him joining hockey's elite, winning the Conn Smythe and Stanley Cup in 2006.

48. Curtis Joseph

3 trên 50

    Hình ảnh Al Bello/Getty

    "Cujo" đã bắn ra khỏi cổng sự nghiệp với St. Louis Blues và giành chiến thắng 100 trận trong 209 lần ra sân đầu tiên, trở thành nhanh nhất để làm điều đó trong lịch sử câu lạc bộ.

    Giống như nhiều thủ môn trong thập niên 90, Joseph đã bị bỏ qua trong Dự thảo NHL và ký hợp đồng với St. Louis như một đại lý miễn phí. Một trong những bản hợp đồng tốt nhất trong lịch sử đội, Joseph đã cho thủ môn và sự tự tin của blues Championship Net.

    Joseph cũng lớn như họ đã có và đưa đội của anh ấy trở lại thành công trên nhiều & nbsp; Mùa giải & nbsp; ngay từ đầu trong sự nghiệp. Cujo đã dẫn dắt The Overmanned Blues đến một cuộc càn quét chống lại Chicago Blackhawks dẫn đầu hội nghị vào năm 1993, và đã loại bỏ một hạt nhân bốn lần trong sự nghiệp của mình.

    Bên trong các con số: 2 trò chơi All-Star, 1 King Clancy Trophy.: 2 All-Star games, 1 King Clancy trophy.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Cujo là một thủ môn trò chơi lớn, người có thể là sự khác biệt cho đội của anh ta trong bất kỳ đêm nào.: Cujo was a big-game goaltender who could be the difference for his team on any given night.

    Màn trình diễn của anh ấy cho Edmonton Oilers trong Game 7 của loạt trận đầu tiên với Dallas Stars thật tuyệt vời. Sự tuyệt vọng của anh ấy đã tiết kiệm trước Joe Nieuwendyk trong giờ làm thêm chỉ đơn giản là phép thuật và cho phép các Oilers giành chiến thắng trên mặt đối mặt sau.

47. John Vanbiesbrouck

4 trên 50

    Hình ảnh Al Bello/Getty

    "Beezer" là một trong những thủ môn kỹ thuật và đúng vị trí nhất từng nhớ mạng lưới trong NHL. Sự nghiệp của anh ấy có thể đã không đạt được mục tiêu cuối cùng, nhưng anh ấy thường là cầu thủ giỏi nhất trên băng cho đội của mình và không bao giờ để đồng đội của anh ấy thất vọng.

    Đỉnh cao trong sự nghiệp của anh ấy có lẽ là trong vòng play-off 1995-96, nơi anh ấy đã dẫn dắt Florida Panthers trên một Lọ Lem chạy đến trận chung kết.

    Trong một cuộc chạy đua được đánh dấu bởi Scott Mellanby Slapshot định mệnh đã kết thúc cuộc sống của một con chuột trong "Vomitory", Beezer là người tạo ra sự khác biệt cho Florida. Đó là một cuộc chạy đua kỳ diệu đã chứng kiến ​​Beezer cắt giảm Mario Lemieux-Jaromir Jagr đã dẫn dắt Pittsburgh Penguins trong trận chung kết phía đông, và một loạt các doanh số bán bằng nhựa.

    Sau đó, một tát sau giờ làm thêm giờ sau đó, Colorado Avalanche đã gửi Panthers về nhà mà không có gì phải xấu hổ, & nbsp; VanBiesbroUck nhất.

    Bên trong các con số: 1 Vezina Trophy, 3 NHL All-Star Games: 1 Vezina trophy, 3 NHL All-Star games

    Điều làm cho anh ta khác biệt: Vanbiesbrouck nhỏ bé đã làm điều không thể tưởng tượng được khi anh ta lùi lại bản mở rộng ba tuổi của Panthers vào trận chung kết.: The diminutive Vanbiesbrouck did the unthinkable when he backstopped the three-year-old expansion Panthers to the finals.

    Với một nhóm bao gồm các dự thảo mở rộng, và các cuộc gọi AHL, Beezer đã đánh bại các tờ rơi do Lindros và Chim cánh cụt do Lemieux lãnh đạo trước khi rơi vào Patrick Roy và Avalanche trong trận chung kết. & NBSP;

46. ​​Hugh Lehman

5 trên 50

    Hugh Lehman là một thủ môn tuyệt vời khác, một nhà đổi mới cho khúc côn cầu chuyên nghiệp ở khắp mọi nơi, vì anh ta là thủ môn đầu tiên rời khỏi nếp nhăn và chơi bóng.

    Chơi cho nhiều giải đấu để bắt đầu sự nghiệp của mình, Lehman cuối cùng đã tìm thấy nhà của mình với Hiệp hội khúc côn cầu Bờ biển Thái Bình Dương. Anh gia nhập Vancouver sau thời gian ngắn ngủi với New Westminster Royals, trong năm đầu tiên tồn tại của hiệp hội.

    Một vận động viên trượt băng xuất sắc và tay cầm puck, Lehman cũng đã giành được Cup Stanley trong năm 1914-15 cho các triệu phú Vancouver, khiến họ trở thành đội PCHA đầu tiên giành được tất cả.

    Bên trong các số: 1 Stanley Cup, 11 lựa chọn All-Star.: 1 Stanley Cup, 11 All-Star selections.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Một trong nhiều nhà đổi mới trong danh sách này, Lehman đã thêm yếu tố nguy hiểm của việc xử lý puck bên ngoài nếp nhăn cho đội của anh ta.: One of the many innovators on this list, Lehman added the dangerous element of puck-handling outside of the crease to his team.

45. Bill Ranford

6 trên 50

    Jamie Squire/Getty Images

    Bạn sẽ khó có thể tìm thấy một thủ môn tốt hơn vào đầu những năm 90 so với Bill Ranford, người có phong cách thể thao và tâm lý khó khăn đã giải trí cho người hâm mộ ở khắp mọi nơi.

    Đổ đầy những đôi giày khá khá lớn của Grant Fuhr đã chứng minh một nhiệm vụ khó khăn, và Gretzky ở L.A. Chắc chắn không giúp ích gì cho vấn đề.

    Năm giành chiến thắng của anh ấy có một số màn trình diễn xấu xí để bắt đầu trận playoffs, nhưng Ranford đã hồi phục khá độc đáo trên đường để đánh bại Bruins cho Stanley Cup.

    Bên trong các con số: 2 Cup Stanley, 1 Conn Smythe Trophy, 1 trò chơi All-Star.: 2 Stanley Cups, 1 Conn Smythe trophy, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Ranford là một đối thủ cạnh tranh có thể mang đội của anh ta trên lưng, và giành chiến thắng Game 1 trong một bộ phim kinh dị ba lần trước Boston trong trận chung kết.: Ranford was a competitor who could carry his team on his back, and won Game 1 in a triple-overtime thriller against Boston in the finals.

44. Normie Smith

7 trên 50

    Normie Smith đã dẫn dắt Detroit Red Wings đến các danh hiệu back-to-back vào đầu những năm 1930, lần đầu tiên là chống lại đội bóng cũ của anh ấy ở Montreal Maroons chỉ ba năm sau khi rời đi.

    Trong một thời đại mà hầu hết các thủ môn đã chơi một phong cách chơi đứng, Smith đã đi trước thời đại của anh ấy và không bao giờ sợ thất bại xung quanh để ngăn chặn quả bóng.

    Đặt hai bản ghi NHL trong loạt phim đáng nhớ chống lại Maroons, Smith đã ghi lại 92 pha cứu thua và đóng cửa Montreal trong 176 phút liên tiếp.

    Bên trong các con số: 2 Cup Stanley, 1 Vezina Trophy.: 2 Stanley Cups, 1 Vezina trophy.

    Điều khiến anh ta khác biệt: & nbsp; thủ môn nhỏ bé đã đăng ký chỉ lúc 5'7 "và 155 lbs, nhưng đã lập kỷ lục NHL cho những phút playoff-shutout đứng trong 76 năm. & NBSP;: The diminutive goaltender checked in at just 5'7" and 155 lbs, but set a NHL record for playoff-shutout minutes that stood for 76 years. 

43. Ron Hextall

8 trên 50

    Jamie Squire/Getty Images

    Bạn sẽ khó có thể tìm thấy một thủ môn tốt hơn vào đầu những năm 90 so với Bill Ranford, người có phong cách thể thao và tâm lý khó khăn đã giải trí cho người hâm mộ ở khắp mọi nơi.

    Đổ đầy những đôi giày khá khá lớn của Grant Fuhr đã chứng minh một nhiệm vụ khó khăn, và Gretzky ở L.A. Chắc chắn không giúp ích gì cho vấn đề.

    Anh ấy cũng là một trong những thủ môn đầu tiên ghi bàn thắng, trở lại khi chỉ số đó không phải là thứ gì đó dễ dàng ghi lại.

    Một trong những thủ môn giỏi nhất từng xử lý Puck, khả năng trở thành người phòng thủ thứ ba trên băng là một yếu tố rất lớn đối với Flyers Philadelphia.

    Bên trong các con số: 1 Vezina Trophy, 1 Conn Smythe Trophy, 1 trò chơi All-Star.: 1 Vezina trophy, 1 Conn Smythe trophy, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Hextall ghi được hai bàn thắng với tư cách là một netminder và một trong vòng playoffs và, mặc dù đôi khi cảm xúc của anh ấy đã trở nên tốt hơn, anh ấy là người chiến thắng cho Philadelphia. & NBSP;: Hextall scored two goals as a netminder and one in the playoffs and, although his emotions got the better of him at times, he was a winner for Philadelphia. 

42. Paddy Moran

9 trên 50

    Trước khi Ron Hextall bao giờ vung cây gậy thủ môn của mình để bảo vệ nếp nhăn của mình, Paddy Moran đã dọn sạch băng trên mạng của mình với quyền lực. Trong một thời đại không có nếp nhăn được xác định, Moran đã tự khắc mình vào đôi chân của mình vào chân đối thủ.

    Chơi ở nhiều giải đấu, Moran đã trao giải vô địch back-to-back cho Quebec, đánh bại giải đấu khúc côn cầu chuyên nghiệp hàng hải tốt nhất đã phải cung cấp.

    Chơi cho các đội phụ mà hầu như không thể hoàn thành .500, thành công duy nhất của Moran được ghi nhận là hai chiến thắng của Stanley Cup với Câu lạc bộ khúc côn cầu Quebec Bulldogs.

    Bên trong các số: 2 Cup Stanley, 2 lựa chọn All-Star.: 2 Stanley Cups, 2 All-Star selections.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Một trong số ít người chơi trong danh sách của chúng tôi không bao giờ chơi trong NHL, Moran là người giỏi nhất trong thời đại của anh ấy và xác định vị trí của thủ môn: One of the few players on our list to never play in the NHL, Moran was the best of his era and defined the position of goaltender

41. Chuck Rayner

10 trên 50

    Trong sáu năm, Rayner lang thang trong Nets cho New York Rangers và giành được chiếc cúp tưởng niệm Hart năm 1950.

    Anh ấy cũng đã dẫn dắt đội vượt trội của mình đến Game 7 của Chung kết Stanley Cup, nhưng bị từ chối khi Pete Babando đưa Detroit trở thành chức vô địch trong giờ làm thêm.

    Chuck Rayner là một trong những thủ môn giỏi nhất trong thời đại của anh ấy, và liên tục lùi lại một số đội khá xấu để thành công. & NBSP;

    Bên trong các con số: 1 Hart Trophy, 3 trò chơi All-Star.: 1 Hart trophy, 3 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Chuck Rayner đã đánh cắp Game 5 và 6 của trận chung kết Stanley Cup chống lại Powerhouse Detroit Red Wings và "dây chuyền sản xuất" nổi tiếng của họ.: Chuck Rayner stole Game 5 and 6 of the Stanley Cup Finals against the powerhouse Detroit Red Wings and their famed "Production Line."

    Chống lại một đối thủ vượt trội, và buộc phải chơi toàn bộ vòng vô địch trên đường vì rạp xiếc tiếp quản Madison Square Garden, Rayner gần như đã mang lại giải thưởng lớn nhất của khúc côn cầu.

40. Mike Karakas

11 trên 50

    Trong một thời đại mà các cầu thủ sinh ra ở Mỹ rất ít, Mike Karakas là thủ môn đầu tiên của Hoa Kỳ giành được tất cả. & NBSP;

    Khác nhau như anh, Karakas cũng dựa vào gốc rễ bóng chày của mình với bàn tay găng tay nhanh và phong cách không chính thống. & nbsp;

    The Blackhawks đã đấu tranh thông qua chiến dịch 14-25-9 vào năm 1937-38 và, đằng sau mục tiêu xuất sắc của anh ấy, đã giành được tất cả năm sau. nghề nghiệp trong trẻ vị thành niên do tranh chấp tiền lương.

    Một số phận đáng tiếc cho một người chơi đặc biệt đã mang theo những giấc mơ và hy vọng một đội bóng xấu cho chức vô địch.

    Bên trong các con số: 1 Stanley Cup, 1 Calder Trophy, 1 lựa chọn All-Star.: 1 Stanley Cup, 1 Calder trophy, 1 All-Star selection.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Karakas là người theo dõi trong mạng dành cho các thủ môn sinh ra ở Mỹ và, ở một mức độ thấp hơn, các cầu thủ Mỹ như một tập thể. Anh ta đã giành được Cup Stanley trước khi Frank Brimsek thậm chí còn ở NHL, và mở đường cho các thủ môn của Hoa Kỳ trong nhiều năm tới.: Karakas is the trailblazer in net for American-born goaltenders and, to a lesser degree, American players as a collective. He won the Stanley Cup before Frank Brimsek was even in the NHL, and paved the way for U.S. goaltenders for years to come.

39. Eddie Giacomin

12 trên 50

    Eddie Giacomin là một trong những kiểm lâm viên được yêu thích nhất mọi thời đại và, trong phần tốt hơn của một thập kỷ, đã đưa Rangers vào vòng playoffs.

    Anh ấy đã dẫn đầu giải đấu trong các trò chơi chơi và đóng cửa trong bốn năm thẳng, từ năm 1967 trở đi, và dẫn Rangers đến Chung kết Stanley Cup vào năm 1971-72. Với rạp xiếc buộc Rangers phải chơi loạt trận chung kết hoàn chỉnh trên đường, Giacomin đã đưa ra một trong những màn trình diễn thủ môn xuất sắc nhất mọi thời đại.

    Giacomin cũng khó khăn như họ đã đến, và Giacomin đã cho thấy điều đó trong một trận đấu playoff với Chicago Blackhawks vào năm 1971. & NBSP; thời trang. & nbsp;

    Jean Ratelle và Vic Hadfield không thể tạo ra sự khác biệt cho New York khi họ rơi vào sáu trận đấu với Bruins do Bobby Orr dẫn đầu. Orr sẽ giành được chiếc cúp Conn Smythe thứ hai của mình, khiến anh trở thành người chơi đầu tiên trong lịch sử ghi lại các MVP playoff back-to-back.

    Bên trong các con số: 1 Vezina Trophy, 6 trò chơi All-Star.: 1 Vezina trophy, 6 All-Star games.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Giacomin đã được miễn trừ sau mùa giải 1974, và trở lại MSG như một cánh đỏ vào năm sau. Những người hâm mộ tại Madison Square Garden đã trả lời anh hùng của họ, la ó các kiểm lâm viên của họ và tụng tên của Eddie.: Giacomin was waived following the 1974 season, and returned to MSG as a Red Wing the following year. The fans at Madison Square Garden responded to their hero, booing their Rangers and chanting Eddie's name.

    The Red Wings đã giành chiến thắng trong trò chơi đó theo kiểu định mệnh, trong phần không nhỏ cho trò chơi của Giacomin trên mạng.

38. Chris Osgood

13 trên 50

    Jim Mcisaac/Getty Images

    Chris Osgood là một trong những thủ môn bị bỏ qua nhất trong lịch sử NHL, với một hồ sơ xuất sắc mà các nhà phê bình của ông liên tục bỏ qua. Anh ta được mệnh danh là người bắt đầu cho vòng playoffs trong năm tân binh của mình, chỉ để thực hiện một doanh thu khủng khiếp dẫn đến việc Detroit bị lật đổ chống lại Sharks San Jose mới nổi.

    Một Cup Stanley và một Mike Vernon Conn Smythe sau đó, và Osgood một lần nữa là người đàn ông cho Red Wings in Net. Sau khi xác nhận việc chuyển sang vận chuyển Vernon đến San Jose bằng cách càn quét Thủ đô Washington để giành chức vô địch back-to-back, Osgood đã được miễn trừ vào năm 2001.

    Sau một thời gian ngắn với người dân đảo và nhạc blues, Osgood trở lại Detroit và trong mùa & nbsp; 2007 trận08 đã trở lại hình thành. Osgood là công cụ trong cuộc diễu hành của Red Wings đến Chung kết Stanley Cup, nơi Osgood giành chức vô địch thứ hai. & NBSP;

    The Red Wings đã rơi vào trận chung kết Stanley Cup vào năm sau, phủ nhận chức vô địch thứ ba của Osgood, nhưng anh ấy vẫn là một trong những người chiến thắng vĩ đại nhất mọi thời đại. & NBSP;

    Bên trong các con số: 4 Cup Stanley, 2 danh hiệu William Jennings, 4 trò chơi All-Star.: 4 Stanley Cups, 2 William Jennings trophies, 4 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Hãy nói những gì bạn sẽ làm về Chris Osgood, nhưng anh ấy luôn chứng minh những nghi ngờ sai lầm của mình và thể hiện sự hấp dẫn của anh ấy. Sự trở lại của anh ấy với Red Wings khi Hasek đi trước anh ấy có thể là một trong những câu chuyện thủ môn vĩ đại nhất mọi thời đại.: Say what you will about Chris Osgood, but he's always proven his doubters wrong and shown his championship mettle. His return to the Red Wings when Hasek was ahead of him could be one of the greatest goaltender stories of all-time.

37. Roger Crozier

14 trên 50

    Người chiến thắng đầu tiên của Conn Smythe giành được chiếc cúp, mặc dù thua trong trận chung kết, Roger Crozier & NBSP; Tinh hiệu trái tim và linh hồn trong Nets cho Red Wings ngay từ đầu sự nghiệp.

    Trong mùa giải đầy đủ đầu tiên của mình với Detroit, anh đã trở thành cầu thủ duy nhất trong lịch sử NHL không tên Terry Sawchuk giành được một Calder cũng như được bầu chọn là All-Star.

    Chống lại đội Powerhouse Montreal Canadiens trong trận chung kết 1955-56, Crozier và Red Wings đã tham gia hai trận đấu đầu tiên trước khi chấn thương vượt qua thủ môn trong Game 4.

    "Rocket" vĩ đại của Maurice, Richard đã từng nói rằng Crozier có "phản xạ tốt nhất trong tất cả khúc côn cầu", lời khen ngợi cao đến từ nhân vật mang tính biểu tượng. Trong ba năm, anh được cho là thủ môn giỏi nhất trong doanh nghiệp, đã giành được Hap Holmes, Calder và Conn Smythe từ năm 1964-1966.

    Các vấn đề về sức khỏe, và một nhãn hiệu không công bằng là không thể thực hiện khi đèn sáng nhất, làm hỏng sự nghiệp một thời của anh ấy.

    Bên trong các con số: 1 Vezina Trophy, 1 Calder Trophy, 1 Conn Smythe Trophy, 1 All-Star Game.: 1 Vezina trophy, 1 Calder trophy, 1 Conn Smythe trophy, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Nếu không nghỉ hưu ngắn ngủi sau một chuỗi các trò chơi xấu, Crozier có thể là một trong những trò chơi vĩ đại nhất mọi thời đại. Thay vào đó, sự nghỉ phép của anh ấy từ khúc côn cầu đã cho anh ấy một nhãn hiệu không công bằng mà không thể được áp dụng sai hơn.: Without his brief retirement following a string of bad games, Crozier could have been one of the greatest of all-time. Instead, his sabbatical from hockey got him an unfair label that couldn't have been more wrongly applied.

36. Lorne Chabot

15 trên 50

    Lorne Chabot là một người chiến thắng, người không thể tôn trọng trong những ngày đầu của NHL, khi sự nghiệp của anh kéo dài sáu đội trong 11 năm. Cuộc tranh luận có thể được đưa ra rằng anh ta là một trong những người vĩ đại nhất không bao giờ tạo nên Hội trường danh vọng.

    Thường bị lãng quên, Chabot đã đưa các kiểm lâm viên vào trận chung kết với Montreal trong mùa giải 1927-28, nhưng bị chấn thương trong loạt năm trận.

    Anh được thay thế bởi huấn luyện viên 44 tuổi Lester Patrick, người đã dẫn dắt Rangers tới chiến thắng ngoài giờ 2-1. Liên tục bị bỏ qua và đôi khi giật gân vì thay đổi tên của mình để thu hút nhiều người hâm mộ Do Thái hơn, Chabot là một trong những thủ môn bị đánh giá thấp nhất mọi thời đại.

    Bên trong các con số: 2 Cup Stanley, 1 Vezina Trophy.: 2 Stanley Cups, 1 Vezina trophy.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Sau khi đưa Nels Stewart vào mắt anh ta trong chức vô địch 1927-28, sự nghiệp của Chabot bị trật bánh khi anh ta bị giao dịch không thương tiếc từ đội này sang đội khác trong năm năm tới.: After taking a Nels Stewart shot to his eye in the 1927-28 championship, Chabot's career derailed as he was traded mercilessly from team to team for the next five years.

    Kết thúc với 201 chiến thắng, 73 lần đóng cửa và trung bình 1,54 bàn thắng lấp lánh, Chabot rất có thể là thủ môn bị đánh giá thấp nhất từ ​​trước đến nay.

35. Ed Belfour

16 trên 50

    Steve Babineau/Getty Images

    Ed Belfour là một trong những thủ môn tập trung mạnh mẽ nhất và sắc sảo nhất trong NHL. Anh ấy đã vô địch mặc dù đã giành được một chức vô địch tại Đại học Bắc Dakota sau một mùa giải cao cấp to lớn.

    Anh tiếp tục được Chicago Blackhawks ký hợp đồng miễn phí. Trong mùa giải tân binh của mình, anh đã thắng 44 trận trong 74 trận khởi đầu và ghi được bốn lần đóng cửa với GAA là 2,47. Anh ta không thể giao giải thưởng lớn cho Chicago, tuy nhiên, chỉ còn ngắn ngủi chống lại Pittsburgh Penguins trong Stanley Cup đầu tiên của họ.

    Được trao tặng các danh hiệu Calder, Vezina và Jennings trong năm đó, anh cũng được đề cử cho Hart làm MVP của NHL.

    Một thủ môn bị đánh giá thấp và thủ môn dữ dội, Belfour không phải lúc nào cũng hòa đồng với các đồng đội này nhưng biết cách chiến thắng.

    Sau một thời gian ngắn ở San Jose, Belfour đã tìm thấy ngôi nhà của mình với Dallas Stars và giành được Cup Stanley duy nhất của mình sau bàn thắng của Hull gây tranh cãi trong trận chung kết.

    Bên trong các con số: 1 Stanley Cup, 2 Vezina Trophy, 4 chiếc cúp Jennings 1 Calder Trophy, 5 trò chơi All-Star.: 1 Stanley Cup, 2 Vezina trophy, 4 Jennings trophies 1 Calder trophy, 5 All-Star games.

34. Roy Worters

17 trên 50

    Một trong những thủ môn nhỏ nhất từng làm duyên cho băng trong NHL, Worters có thể lấp đầy lưới bằng khung 5'3 "của mình và từ chối những người bắn súng sắc sảo nhất.

    Đối với Cướp biển Pittsburgh, Worters đã được bầu chọn cho một đội NHL All-Star không chính thức được chọn bởi các huấn luyện viên vào năm 1927-28. Kết thúc năm đó thứ hai sau Howie Morenz cho Hart Trophy, Worters đã được giao dịch với người Mỹ vào năm sau, nơi anh giành được MVP.

    WORTERS đã đăng một mức trung bình 1,15 bàn thắng cho người Mỹ trong mùa giải 1928-29 và 13 lần ngừng hoạt động khi anh dẫn dắt đội đến vòng playoff sau khi kết thúc chết năm trước.

    Bên trong các con số: 1 Vezina Trophy, 1 Hart Trophy, 2 đề cử All-Star.: 1 Vezina trophy, 1 Hart trophy, 2 All-Star nominations.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Worters đã giành được Cúp Hart với tư cách là thủ môn đầu tiên từng làm như vậy, trong thời đại mà Howie Morenz, Ace Bailey và Bill Cook thống trị ghi bàn. & NBSP;: Worters won the Hart trophy as the first goaltender to ever do so, during an age where Howie Morenz, Ace Bailey, and Bill Cook dominated scoring. 

33. Percy Lesueur

18 trên 50

    Một người tiên phong của trò chơi, & NBSP; Percy Lesueur đã phát triển bộ găng tay đầu tiên để các thủ môn sử dụng trong NHL.

    Găng tay kiểu găng tay của anh ấy đã giúp biến đổi vị trí thủ môn, cuối cùng dẫn đến các thiết bị mà chúng ta thấy ngày nay.

    Chơi 11 mùa tiền NHL, Percy đã hướng dẫn Ottawa đến hai Cup Stanley, vào năm 1909 và 1911, và được giao dịch với Toronto sau khi Clint Benedict đến. & NBSP;

    Bên trong các số & nbsp ;: 3 Cup Stanley, 1 lựa chọn All-Star. : 3 Stanley Cups, 1 All-Star selection.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp; : Lesueur is one of the true innovators of the game, having designed the nets and gloves for use in the NHL and played in hockey's very first All-Star game. 

32. John Hutton

19 trên 50

    Trước khi Bo Jackson đưa các vận động viên hai môn thể thao lên bản đồ, John "Bouse" Hutton đóng vai chính cho ba môn thể thao khác nhau cho Ottawa.

    Đăng một kỷ lục 9-1-1 trong vở kịch Stanley Cup cho Câu lạc bộ khúc côn cầu Ottawa, Hutton cũng đã giành giải vô địch chơi lacrosse cho Ottawa Capitals và Ottawa Rough Riders.

    Chơi ở cấp độ cao nhất có thể trong cả ba môn thể thao, John Hutton là một nhà vô địch thực sự. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley. : 2 Stanley Cups.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & NBSP ;: John Bower Hutton là người đàn ông duy nhất giành được Cup Stanley cũng như Giải vô địch bóng đá và bóng đá Canada. : John Bower Hutton is the only man to win the Stanley Cup as well as the Canadian football and lacrosse championships.

31. Rogie Vachon

20 trên 50

    Bạn không thể gợi lên tên của Rogie Vachon mà không suy nghĩ về Los Angeles Kings, nơi anh ta dành phần lớn sự nghiệp của mình. .

    Trong thời đại mà hầu hết người hâm mộ không thể có được bất kỳ tin tức về Kings Games ở phía đông Rockies, Vachon là L.A. Kings. & NBSP;

    Sau đó, thật buồn cười, hầu hết mọi người thậm chí không nhớ ba chiếc cúp Stanley của anh ấy với Montreal, nơi anh ấy đã đăng một kỷ lục playoff 15-5 và trung bình 1,86 bàn thắng.

    Là người tiên phong thực sự cho khúc côn cầu West Coast, Vachon là trung tâm cho một đội Kings 1974-75 có mùa giải 105 điểm đứng trong hơn một phần tư thế kỷ.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 3 Cup Stanley, 1 Vezina Trophy, 3 trò chơi All-Star. : 3 Stanley Cups, 1 Vezina trophy, 3 All-Star games.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Vachon là bí mật được giữ kín nhất của NHL vào những năm 70, thống trị vị trí của anh ta khi chơi bên ngoài múi giờ phía đông. Trước Gretzky, Vachon là người tiên phong cho khúc côn cầu ở bờ biển bên trái. : Vachon was the NHL's best-kept secret in the 70s, dominating his position while playing outside the Eastern time zone. Before Gretzky, Vachon was the pioneer for hockey on the left coast.

30. Tom Barrasso

21 trên 50

    Khi một đứa trẻ 18 tuổi kéo chiếc áo len Sabers ra khỏi trường trung học, không ai có thể tưởng tượng rằng Tom Barrasso sẽ tiếp tục tận hưởng sự nghiệp NHL được lưu trữ. Giành chiến thắng cả cúp Calder và Vezina, Barrasso đã gia nhập Elite Company với tư cách là một trong bốn thủ môn để hoàn thành kỳ tích đó trong một mùa giải.

    Và đối với tất cả các hỏa lực tấn công, Pittsburgh Penguins đã toát ra, họ đã không giành được một cho đến khi họ bảo vệ phần cuối cùng của câu đố vô địch ở Barrasso.

    Barrasso đã dẫn đầu NHL trong việc đóng cửa và các mục tiêu trung bình vào năm 1984-85 và 14 chiến thắng playoff Stanley Cup liên tiếp của anh ấy có thể không bao giờ bị lật đổ.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 1 Vezina Trophy, 1 Calder Trophy, 1 Jennings Trophy, 3 đề cử All-Star. : 2 Stanley Cups, 1 Vezina trophy, 1 Calder trophy, 1 Jennings trophy, 3 All-Star nominations.

    Điều khiến anh ta khác biệt: thủ môn chiến thắng nhất của Hoa Kỳ mọi thời đại, Barrasso đã giành được hai Cup Stanley nhưng bị lu mờ bởi một số cầu thủ vĩ đại nhất trong trò chơi. : The winningest U.S.-born goaltender of all time, Barrasso won two Stanley Cups but was overshadowed by some of the greatest players in the game.

29. Al Rollins

22 trên 50

    Rollins là một câu chuyện khác về sự xuất sắc cá nhân, dẫn đầu giải đấu về chiến thắng và bàn thắng trong năm 1950-51 cho một đội cuối cùng.

    Sau sáu mùa giải ổn định giải đấu nhỏ, dấu ấn xuất sắc thực sự của anh ấy đã được đưa ra sau khi được Toronto Maple Leafs đón nhận để chia tay với Turk Broda.

    Rollins đã được chiếu sáng trong trận chung kết, đăng 1,55 bàn thắng và bất bại trong ba trận đấu. Được giao dịch với Chicago Blackhawks, Rollins đã giành được Hart trong khi đăng điểm trung bình 3,23 bàn cho vị trí cuối cùng Blackhawks.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 1 Stanley Cup, 1 Vezina Trophy, 1 Hart Trophy, 1 All-Star đề cử. : 1 Stanley Cup, 1 Vezina trophy, 1 Hart trophy, 1 All-Star nomination.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Al Rollins là cầu thủ NHL duy nhất ngoài Tommy Anderson giành được một chiếc cúp Hart cho một câu lạc bộ cuối cùng.: Al Rollins is the only NHL player other than Tommy Anderson to win a Hart trophy for a last place club.

28. Mike Richter

23 trên 50

    Thật khó để xác định nơi sự vĩ đại của Mike Richter thực sự bắt đầu, trong một sự nghiệp chứa đầy các thung lũng và cuộc đấu tranh thấp. Nhưng để đặt cược chống lại người đàn ông chỉ là ngu ngốc, khi anh ta tỏa sáng trên sân khấu lớn nhất với ánh sáng rực rỡ nhất.

    Là người đàn ông hàng đầu của New York vào lưới, áp lực luôn luôn được nhưng lòng biết ơn không phải lúc nào cũng dành cho Mike Richter. Sau khi cho phép một mục tiêu mềm mại cho Ron Francis trong vòng play-off 1991-92, Richter đã mất việc bắt đầu và thực sự bị gửi xuống vì điều hòa.

    Anh ta sẽ hồi phục và vào năm 1993-1994 đã giúp Rangers chấm dứt hạn hán 54 năm khi Richter đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp NHL của anh ta. Đến với vòng playoffs, Richter và Bure đã có khá nhiều khoảnh khắc, nhưng không có gì giống như cú đánh hình trong Game 4.

    Richter là một thủ môn xuất sắc, người có thể hồi phục sau bất kỳ cuộc đi chơi khó khăn hay hoàn cảnh tồi tệ nào, một thứ gì đó không thua Huấn luyện viên Hoa Kỳ Herb Brooks khi tìm kiếm người mới bắt đầu trong Thế vận hội Salt Lake City 2002. & NBSP;

    Đội ủng hộ hiệu suất đáng chú ý của anh ấy ở World Cup năm 1996, và màn trình diễn của anh ấy trong Thế vận hội sau phẫu thuật đầu gối back-to-back, là một minh chứng cho khả năng thực sự của Richter.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 1 Stanley Cup, 3 trò chơi All-Star. : 1 Stanley Cup, 3 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Mike Richter là một câu chuyện tuyệt vời về sự xuất sắc từ một cuộc đấu tranh lâu dài đến đỉnh cao của sự nghiệp. Tiết kiệm của anh ấy chống lại Pavel Bure trong cảnh quay hình phạt trong Trò chơi 7 là một trong những thời đại, và hoàn toàn có thể là tiết kiệm lớn nhất mà Richter từng thực hiện. : Mike Richter is a great story of excellence from a long struggle to the pinnacle of his career. His save against Pavel Bure on the penalty shot in Game 7 was one for the ages, and quite possibly the greatest save Richter ever made.

27. Mike Vernon

24 trên 50

    Mike Vernon là chuyên gia hoàn hảo cả trong và ngoài băng, người mà tính cách tốt bụng của người có sự tập trung mãnh liệt. Một trọng tâm sẽ làm cho nó có sẵn cho bất kỳ ai dám đặt câu hỏi cho Vernon, người không bao giờ là người để băm chữ khi bị đẩy.

    Mang lại ngọn lửa Calgary đến chức vô địch Stanley Cup duy nhất của họ, Vernon là trò chơi lớn của Hồi giáo khi họ có. & nbsp; Vernon đã phát triển mạnh khi các cổ phần cao nhất và didn có từ ngữ thoát khỏi từ vựng của mình.

    Giữa một mùa của các dấu hỏi trên các phương tiện truyền thông, Vernon đã đưa Red Wings đến một chiếc Cup Stanley và giành được chiếc cúp Conn Smythe một năm sau khi bị Quỷ New Jersey quét qua.

    Kết thúc hạn hán 42 năm của Detroit, Vernon đã mở ra một kỷ nguyên mới của khúc côn cầu Red Wing, người có thể được cho là kéo dài cho đến ngày nay.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Stanley Cup, 1 Conn Smythe Trophy, 1 William Jennings Trophy, 5 trò chơi All-Star. : 2 Stanley Cups, 1 Conn Smythe trophy, 1 William Jennings trophy, 5 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & NBSP ;: Buổi biểu diễn của Vernon, trong vòng playoff 1988-89 trong khung thời gian làm thêm của Game 7 so với Vancouver Canucks là một trong những huyền thoại. Nếu không có màn trình diễn của anh ấy trong ba bức ảnh liên tiếp, ngọn lửa Calgary sẽ chơi gôn sớm thay vì nâng cúp Stanley. : Vernon’s performance in the 1988-89 playoffs in the overtime frame of Game 7 vs. the Vancouver Canucks was one for the legends. Without his performance on three consecutive shots, the Calgary Flames would have been golfing early instead of hoisting the Stanley Cup.

    Ông cũng đã dẫn dắt ngọn lửa Calgary đến Cup Stanley trên Montreal Canadiens trên diễn đàn Ice lần đầu tiên trong lịch sử nhượng quyền Montreal.

26. Harry Lumley

25 trên 50

    Harry Lumley là một trong những cầu thủ trẻ nhất và mê tín nhất từng chơi ở NHL, và có thể là một trong những cánh đỏ vĩ đại nhất mọi thời đại.

    Thay vào đó, anh đã được giao dịch chỉ vài tháng sau khi giành được Cup Stanley trong mùa giải 1949-50, và được thay thế bởi Terry Sawchuk.

    Đăng 33 chiến thắng trong năm đó, Lumley đã đưa Rangers xuống trong một lần đóng cửa Game 3 quan trọng được chơi ở Toronto do rạp xiếc tại MSG.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 1 Stanley Cup, 1 danh hiệu Vezina, 3 trò chơi All-Star. : 1 Stanley Cup, 1 Vezina trophies, 3 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Vào lúc 17 tuổi và 38 ngày, Harry Lumley là thủ môn trẻ nhất từng có NHL Ice, và thiếu niên đầu tiên chơi trong trận chung kết Stanley Cup. : At 17 years and 38 days, Harry Lumley is the youngest goaltender to ever take NHL ice, and the first teenager to play in a Stanley Cup final.

25. Riley Hern

26 trên 50

    Thủ môn đầu tiên giành được chiếc cúp được đánh giá cao nhất trong tất cả các môn thể thao, Riley Hern đã chơi trong cuộc thi Stanley Cup chỉ sau khi Hiệp hội khúc côn cầu Đông Canada cho phép nó vào năm 1906.

    Riley đã giành được bốn Cup Stanley liên tiếp cho những người đi lang thang ở Montreal và mặc dù không có nhiều tài liệu về sự nghiệp của anh ấy, anh ấy được gia hạn rộng rãi như một trong những khúc côn cầu vĩ đại nhất.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 4 Cup Stanley, 1 lựa chọn All-Star. : 4 Stanley Cups, 1 All-Star selection.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & NBSP ;: Riley Hern là thủ môn chuyên nghiệp đầu tiên giành Cup Stanley. : Riley Hern was the first professional goalie to win the Stanley Cup.

24. Harry Holmes

27 trên 50

    Harry Holmes là một nhà vô địch Stanley Cup bốn không hai, trong thời đại mà nhiều giải đấu có sự hiện diện trong khúc côn cầu chuyên nghiệp.

    Anh là người chiến thắng NHL Cup đầu tiên [Toronto Arenas, 1917-18] và là người chiến thắng Cup cuối cùng không chơi trong NHL [Seattle Metropolitans, 1916-17].

    Chơi cho sáu giải đấu tổng thể, sự nghiệp của anh ấy chắc chắn là một trong những điều độc đáo nhất trong khúc côn cầu chuyên nghiệp.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 4 Cup Stanley, 8 lựa chọn All-Star. : 4 Stanley Cups, 8 All-Star selections.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & NBSP ;: Holmes đã giành được Stanley Cup bốn lần, cho bốn đội khác nhau từ bốn giải đấu khác nhau. : Holmes won the Stanley Cup four times, for four different teams from four different leagues.

23. Alex Connell

28 trên 50

    Alex Connell có xu hướng lưới cho Ottawa vào giữa những năm 20 và là dấu ấn của sự xuất sắc trong nhiều năm. Với mục tiêu nghề nghiệp là 1,91, Connell đã dẫn đầu NHL trong việc đóng cửa bốn lần và giành được hai Cup Stanley.

    Sau khi bị kéo trong mùa giải 1932-33, Connell giận dữ rời khỏi băng và nghỉ hưu trước khi trở lại băng hai năm sau đó.

    Chơi cho Montreal Maroons, Connell đã gây sốc cho thế giới khúc côn cầu bằng cách càn quét Toronto trên đường để giành Cup Stanley. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley. : 2 Stanley Cups.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp; : Alex Connell holds or is tied in NHL history with multiple distinctions in net, including double-digit shutouts in three consecutive seasons, and the most shutouts in a season.

22. Charlie Gardiner

29 trên 50

    Charlie Gardiner thể hiện tinh thần thủ môn với sự cống hiến bất diệt của anh ấy cho môn thể thao này và các đồng đội của anh ấy. Không có câu chuyện nào lớn hơn trong NHL vào năm 1933-34 so với bài hát thiên nga của Gardiner cho Chicago Blackhawks.

    Sau khi rơi vào Montreal Canadiens trong trận chung kết Stanley Cup 1930-31, Gardiner đã chiến đấu với một bệnh nhiễm trùng amidan khó chịu để dẫn Chicago đến vinh quang vào năm 1933-34.

    Đóng cửa Detroit Red Wings trong bốn trận đấu, Gardiner không bao giờ tiết lộ căn bệnh của mình cho các đồng đội của mình và chiến đấu với nỗi đau để giao Cup Stanley. Anh ấy đã vượt qua ngay sau khi giành được tất cả, trước cú sốc của các đồng đội và người hâm mộ khúc côn cầu trên toàn thế giới. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 1 Stanley Cup, 2 danh hiệu Vezina, 1 trò chơi All-Star. : 1 Stanley Cup, 2 Vezina trophies, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & NBSP ;: Charlie Gardiner là một trong những anh hùng bi thảm nhất của khúc côn cầu, người đã vượt qua chỉ hai tháng sau khi giành được Cup Stanley vào năm 1933-34 cho Chicago Blackhawks. : Charlie Gardiner is one of hockey's most tragic heroes, who passed just two months from winning the Stanley Cup in 1933-34 for the Chicago Blackhawks.

21. Cecil Thompson

30 trên 50

    Cecil "Tiny" Thompson thực sự chỉ là 5'9 "nhưng ngày càng lớn hơn cuộc sống khi các trò chơi được tính nhiều nhất.

    Trung bình 1,88 bàn thắng của anh ấy trong vở kịch Stanley Cup xác định sự thống trị của anh ấy, chỉ thiếu một trận đấu trong 10 mùa NHL cho thấy sự dẻo dai của anh ấy.

    Mùa giải tốt nhất của Thompson có thể là mùa giải 1929-30, nơi anh đã thắng 14 trận liên tiếp và đăng một tỷ lệ chiến thắng .875.

    Tiny Thompson đã giành chiến thắng trong năm trận đấu đầu tiên của mình, và đã đưa Bruins vào vị trí đầu tiên sáu lần trong chín năm. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 1 Stanley Cup, 4 danh hiệu Vezina, 1 trò chơi All-Star. : 1 Stanley Cup, 4 Vezina trophies, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp; : Tiny Thompson was one of the first goalies to use their catching glove to make the save.

20. Gerry Cheevers

31 trên 50

    Gerry Cheevers đã dành những thành tựu cá nhân và để mắt đến giải thưởng thực sự trong khúc côn cầu chuyên nghiệp, Stanley Cup.

    Sau khi đảm nhận vai trò khởi đầu vào năm 1967 cho Boston Bruins, Cheevers đã ghi dấu ấn trong trận chung kết Stanley Cup 1970 và 1972, thiết lập sự thống trị của mình bằng cách giành được tất cả.

    Sau một trong những mùa giải thường xuyên nhất của anh ấy vào năm 1972, Cheevers đã nhảy tàu đến WHA và thống trị cho Thập tự quân Cleveland trước khi trở về NHL vào năm 1976.

    Thống trị cả hai giải đấu, Cheevers đã dẫn dắt Bruins ra khỏi thập kỷ khủng khiếp của thập niên 60 và thành lập Boston như một cường quốc trong những năm 1970.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 1 trò chơi All-Star. : 2 Stanley Cups, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Cheevers đã đăng một chuỗi 32 trận bất bại trong mùa giải 1971-72, và cũng có một trong những mặt nạ thủ môn đáng nhớ nhất mọi thời đại. & NBSP; : Cheevers posted a 32-game unbeaten streak in the 1971-72 season, and also has one of the most memorable goalie masks of all time. 

19. Johnny Bower

32 trên 50

    Johnny Bower đã dành thời gian đầu của sự nghiệp của mình với các nam tước Ahl Cleveland, và liên tục từ chối các cuộc tấn công của New York Rangers cho đến khi cuối cùng cũng phải chịu đựng vào năm 1952.

    Sau khi tham gia vào các kiểm lâm viên đang gặp khó khăn, Bower trở nên bất mãn và trở về với các Nam tước Cleveland. Bower cần thuyết phục trở lại NHL sau khi Toronto Maple Leafs tuyên bố ông trong dự thảo Intraleague năm 1958.

    Rất may cho Thành phố Toronto, Bower đã trở lại và ở tuổi 35 được hưởng một mức độ thành công đáng chú ý khi giành được bốn Cup Stanley.

    Mùa giải tốt nhất của anh có thể là năm 1967, nơi Maple Leafs giành được chiếc cúp với đội hình lâu đời nhất trong lịch sử NHL. Kết hợp với Terry Sawchuk, Bower đã đăng một tỷ lệ phần trăm tiết kiệm 0,951 ở tuổi 42 để giành tất cả trước Montreal Canadiens trong sáu. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 4 Cup Stanley, 2 danh hiệu Vezina, 4 trò chơi All-Star. : 4 Stanley Cups, 2 Vezina trophies, 4 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Johnny Bower đã không bắt đầu sự nghiệp Maple Leaf cho đến khi anh ấy 35 tuổi, và chơi tốt vào những năm 40 của anh ấy để tạo ra một thanh xuất sắc bất chấp tuổi anh ấy. Maple Leafs của ông vào năm 1967 đã hồi sinh từ hai trận thua bị thổi bay cho họ bởi Montreal Canadiens để giành Cup Stanley. & NBSP; : Johnny Bower didn't begin his Maple Leaf career until he was 35, and played well into his 40s setting a bar of excellence that defied his age. His Maple Leafs in 1967 rebounded from two blowout losses handed to them by the Montreal Canadiens to win the Stanley Cup. 

18. Grant Fuhr

33 trên 50

    Grant Fuhr là thủ môn khó nhất để chấm điểm trên slide này. Rốt cuộc, làm thế nào bạn có thể định lượng chính xác năng lực thủ môn của anh ấy khi chơi với các nhà truyền hình quyền lực trong thập niên 80?

    Một trong những cầu thủ làm việc chăm chỉ nhất trong đội Oiler, Fuhr đã lao động để thoát khỏi cái bóng khổng lồ của nhiều hội trường của những người nổi tiếng trước mặt anh ta.

    Trong khi những người khai thác tự do trước mặt anh ta, Fuhr đã cản trở đối thủ của mình và đưa ra những tiết kiệm tinh thần một cách thường xuyên.

    Lối chơi của anh ấy trong lưới đã cho các Oilers rất có cơ hội thiết lập tất cả những kỷ lục đó và giành được tất cả những chiếc cúp đó, và đưa chúng vượt qua hông Islander vào năm 1983-84. Vượt qua New York Islanders 19-6 trong sê-ri, Fuhr đã cho họ những điểm dừng mà họ cần để châm ngòi cho một trong những triều đại vĩ đại nhất trong lịch sử NHL. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 5 Stanley Cup, 1 Vezina Trophies, 1 Jennings Trophy, 6 trò chơi All-Star. : 5 Stanley Cup, 1 Vezina trophies, 1 Jennings trophy, 6 All-Star games.

    Điều khiến anh ta khác biệt & nbsp ;: Grant Fuhr là tuyến phòng thủ cuối cùng trong một đội thường quên chơi nó, và cho các Oilers kịp thời là nền tảng của triều đại của họ. : Grant Fuhr was the last line of defense on a team that often forgot to play it, and gave the Oilers timely goaltending that was the foundation of their dynasty.

    Cũng là người tiên phong trong việc phá vỡ hàng rào màu trong khúc côn cầu, Fuhr đã mở đường cho nhiều người chơi năng động mà chúng ta root cho ngày hôm nay. Sự nghiệp của anh ấy là đối thủ của bất kỳ thủ môn nào từng dây đeo trên thiết bị, trong thời đại mà các cầu thủ da đen không phổ biến ở NHL.

17. Tony Esposito

34 trên 50

    Thủ môn vĩ đại nhất trong lịch sử Chicago Blackhawk, Tony Esposito nắm giữ mọi kỷ lục có thể tưởng tượng được cho nhượng quyền thương mại. & NBSP;

    Với sự bối rối về sự giàu có trong mạng, Montreal đã khiến Esposito không được bảo vệ vào năm 1969, và Blackhawks tuyên bố một nền tảng của lịch sử nhượng quyền.

    Ghi lại mười lăm lần đóng cửa trong năm đầu tiên của mình, Esposito đã giảm chỉ trong Game 7 mùa đó, chống lại đội Canadiens mà anh ấy đã rời đi. trong sáu.

    Với bảy mùa giải 30 trận liên tiếp, Esposito là người làm việc cho Blackhawks xếp thứ nhất hoặc thứ hai trong các trò chơi chơi nhiều lần trong suốt sự nghiệp ở Chicago của anh ấy. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp; : 1 Stanley Cup, 3 Vezina trophies, 1 Calder trophy, 6 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Tony Esposito là thủ môn đầu tiên đánh bại Liên Xô trong loạt hội nghị thượng đỉnh năm 1972 cho Đội Canada. & NBSP; : Tony Esposito was the first ever goalie to beat the Soviets in the Summit Series of 1972 for Team Canada. 

16. Gump xấu đi

35 trên 50

    Gump đã trải qua một phần tốt hơn trong sự nghiệp của mình, sau khi bắt giữ New York Rangers và giành được một chiếc cúp Calder vào năm 1952. Sau một cuộc tranh chấp hợp đồng đối với số lượng 500 đô la nổi tiếng, tuy nhiên, anh đã được đưa trở lại WHL vào mùa giải tiếp theo.

    Được gọi trở lại vào năm 1954, Worsley đánh bại Johnny Bower để đưa Nets một lần nữa cho các kiểm lâm viên đang gặp khó khăn. Không tiến ra khỏi vòng đầu tiên trong nửa đầu của sự nghiệp nổi bật của mình, trở nên tồi tệ hơn khi được giao dịch với Montreal Canadiens vào mùa hè năm 1963.

    Được gọi là một trong những người đàn ông hài hước nhất trong khúc côn cầu, bị ghét bay và, không giống như các đồng nghiệp của anh ta, đã không đeo mặt nạ.

    Anh ấy đã phát triển mạnh mẽ ở Montreal và tận hưởng một năm sự nghiệp vào năm 1968, nơi anh ấy đã đăng một sự nghiệp thấp 1,98 bàn thắng và giành được 11 lần liên tiếp trong cuộc tranh luận. & NBSP; Người Canadiens đã càn quét blues do Scotty Bowman dẫn đầu trong trận chung kết. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 4 Cup Stanley, 2 chiếc cúp Vezina, 1 cúp Calder, 4 trò chơi All-Star. : 4 Stanley Cups, 2 Vezina trophies, 1 Calder trophy, 4 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Gump Worsley đã giành được bốn Cup Stanley, nhưng không thể thoát khỏi vòng đầu tiên trong 10 năm đầu tiên với tư cách là một chuyên gia. Anh ấy cũng là thủ môn đầu tiên giành chiến thắng 300 và thua 300 trận. : Gump Worsley won four Stanley Cups, but couldn't get out of the first round in his first 10 years as a professional. He was also the first goaltender to win 300 and lose 300 games.

15. Billy Smith

36 trên 50

    Một nền tảng trong triều đại New York Islander, Billy Smith đã dẫn đầu các đảo đến Stanley Cup trong mùa giải 1979-80.

    Một Slapshot ngoài giờ của Bob Nystrom đã khởi động một cuộc điều hành bốn năm của New York trước khi cuối cùng rơi vào Wayne Gretzky và Edmonton Oilers trong vòng play-off 1983-84.

    Trong suốt thời gian này, không ai có thể ly hợp như Billy Smith, người thống trị trong vòng playoff với bản chất bốc lửa và công việc sáng tạo của mình. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 4 Cup Stanley, 1 Vezina Trophy, 1 Conn Smythe Trophy, 1 Jennings Trophy, 1 All-Star Game. : 4 Stanley Cups, 1 Vezina trophy, 1 Conn Smythe Trophy, 1 Jennings trophy, 1 All-Star game.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Billy Smith đã lập kỷ lục NHL bằng cách giành được 19 loạt trận playoff Stanley Cup liên tiếp. & NBSP; : Billy Smith set a NHL record by winning 19 consecutive Stanley Cup playoff series. 

14. Frank Brimsek

37 trên 50

    Frank Brimsek đã tận hưởng thành công ngay lập tức với tư cách là một tân binh cho Boston Bruins, và là một trong những thủ môn vĩ đại nhất của Hoa Kỳ mọi thời đại.

    Brimsek có biệt danh là "Ông Zero" sau khi đăng một cặp chuỗi ba trò chơi trong tháng đầu tiên.

    Anh ta có những đôi giày lớn để lấp đầy khi Art Ross bán được những chiếc Thompson nhỏ bé cho Detroit Red Wings, nhưng được giao theo phong cách lớn như một tân binh.

    Anh ta đã giành được Cúp Calder, Vezina và Stanley Cup trong năm tân binh của anh ta và ngay lập tức xoa dịu sự phẫn nộ của người hâm mộ vì sự ra đi của Thompson.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 2 chiếc cúp Vezina, 1 Calder Trophy, 6 trò chơi All-Star. : 2 Stanley Cups, 2 Vezina trophies, 1 Calder trophy, 6 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Frank Brimsek là thủ môn tân binh duy nhất trong lịch sử NHL giành được Calder, Vezina và Stanley Cup trong một năm. : Frank Brimsek is the only rookie goaltender in NHL history to win the Calder, Vezina and Stanley Cup in one year.

13. Clint Benedict

38 trên 50

    Một người tiên phong tuyệt vời khác trong thủ môn, Clint Benedict đã chiến đấu với các quy tắc từng bị phạt một thủ môn vì rơi xuống băng để chặn một phát bắn.

    Nhà đổi mới, Tiên phong, hay thiên tài? Clint Benedict sẽ giả vờ rơi xuống băng, khiến các quan chức ngày càng khó phân biệt và gọi hình phạt nhỏ. & NBSP;

    Benedict là thủ môn NHL đầu tiên ghi lại việc đóng cửa trở lại, cũng như lần đầu tiên đăng ba lần đóng cửa Stanley Cup liên tiếp.

    Với 15 lần đóng cửa playoff trong sự nghiệp, Benedict đã giành được bốn Cup Stanley cho các thượng nghị sĩ Ottawa, người đầu tiên đến ngay sau trận chung kết Stanley Cup năm 1918-19. & nbsp;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 4 Cup Stanley. : 4 Stanley Cups.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp; : Clint Benedict was one of the original pioneers of hockey and one of the grandfathers to the modern day goaltending we watch today.

12. Broda Turk

39 trên 50

    Người quản lý của Maple Leafs Conn Smythe vô tình & nbsp; vấp ngã & nbsp; trên thủ môn vĩ đại thứ 12 của chúng tôi mọi thời đại, khi anh ấy đi tìm thay thế của George Hainsworth trong mạng. Turk Broda đã vượt qua mục tiêu ban đầu của Smythe, một trò chơi định mệnh cho cả Broda và Toronto Maple Leafs.

    Trong khi các vấn đề về trọng lượng đã khiến người bản địa Manitoba chiếm ưu thế khi anh ta cần và năm Cup Stanley của anh ta chứng minh điều đó. cùng khung thời gian.

    Trong trận bán kết năm 1950, Broda đã ghi lại ba lần đóng cửa trước Detroit Red Wings, chỉ để rơi 1-0 trong khung thời gian làm thêm của Game 7. & NBSP;

    Turk Broda là một trong những thủ môn playoff vĩ đại nhất mọi thời đại, đã chơi trong tám trận chung kết Stanley Cup và giành chiến thắng năm. Tác động của anh ấy trong 101 trận đấu đó là không thể phủ nhận, đưa ra mức trung bình 1,98 bàn thắng và ghi lại 13 lần đóng cửa.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 5 Cup Stanley, 2 danh hiệu Vezina, 4 trò chơi All-Star. : 5 Stanley Cups, 2 Vezina trophies, 4 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Turk Broda trở thành thủ môn đầu tiên trong lịch sử nhượng quyền để đạt được 200 chiến thắng trong sự nghiệp với tư cách là thành viên của Maple Leafs. : Turk Broda became the first goaltender in franchise history to reach 200 career victories as a member of the Maple Leafs.

11. Georges Vezina

40 trên 50

    Một trong 12 cầu thủ ban đầu được bầu vào Hội trường Danh vọng khúc côn cầu, Joseph-Georges & NBSP; Vezina & NBSP; đã chơi 367 trận liên tiếp cho Canadiens và có một trong những danh hiệu lớn nhất của khúc côn cầu được đặt theo tên của anh ấy.

    Trung bình 1,97 bàn thắng của anh ấy vào năm 1923-24 là lần đầu tiên dưới 2.0 trong lịch sử giải đấu và trong trận mở màn playoff đã ghi lại 78 điểm dừng cho chiến thắng đóng cửa trước Ottawa.

    Chơi qua nỗi đau và chấn thương, Vezina là một trong những biểu tượng anh hùng nhất mọi thời đại của khúc côn cầu. Trong trận đấu cuối cùng với Cướp biển Pittsburgh vào mùa giải 1925-26, Vezina đã sụp đổ bị xuất huyết động mạch nhưng từ chối rời khỏi trò chơi.

    Mãi cho đến khi họ đưa anh ta ra khỏi băng, Vezina đã được các bác sĩ thông báo rằng anh ta đang chết vì bệnh lao. Một chiến binh thực sự đến tận cùng, anh ta khăng khăng rằng không ai trong số các đồng đội của anh ta được thông báo trước trận đấu của họ vì sợ rằng điều đó có thể làm họ mất tập trung.

    Anh lặng lẽ qua đời ở tuổi 39, một trong những thủ môn vĩ đại nhất mọi thời đại.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley. : 2 Stanley Cups.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp; : The Canadiens rode Vezina to back-to-back Stanley Cup finals in the 1924 and 1925 seasons, and failed to qualify for the playoffs the year after Vezina was forced to retire.

10. George Hainsworth

41 trên 50

    Mở đầu top 10 trong bảng xếp hạng của chúng tôi, George Hainsworth là một thủ môn khác của Montreal Canadiens, người rất ngoạn mục vào giữa những năm 1920. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1926, Montreal Canadiens đã mua Hainsworth từ Saskatoon Crescents of the WHL, thêm một chương khác vào truyền thuyết Canadiens.

    Trong thời đại mà số liệu thống kê không chính xác là bộ đồ mạnh mẽ của NHL, Hainsworth cũng chiếm ưu thế như họ đến. Anh ấy đã ghi nhận 22 lần đóng cửa chỉ trong 44 trận đấu thường xuyên, và sở hữu một chuỗi đóng cửa hơn 343 phút liên tiếp.

    94 lần đóng cửa sự nghiệp của anh ấy đặt anh ấy thứ ba trong lịch sử NHL mọi thời đại. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1927, Canadiens đã trở thành đội NHL đầu tiên đóng cửa cùng một đối thủ bốn lần liên tiếp với chiến thắng 5-0 trước Montreal Maroons. & NBSP;

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 3 danh hiệu Vezina, 1 trò chơi All-Star. : 2 Stanley Cups, 3 Vezina trophies,1 All-Star game.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & NBSP ;: George Hainsworth đã ghi nhận 22 lần đóng cửa đáng kinh ngạc và trung bình 0,92 bàn thắng vào năm 1928-29 cho Montreal Canadiens. : George Hainsworth recorded an incredible 22 shutouts and a 0.92 goals-against average in 1928-29 for the Montreal Canadiens.

9. Cha mẹ Bernie

42 trên 50

    Bernie Parent là thủ môn duy nhất từng giành chiến thắng trong các danh hiệu Conn Smythe trở lại với tư cách là MVP playoff, nhưng có sự nghiệp đầy hứa hẹn của anh bị trật bánh bởi nhiều chấn thương. Mặc dù đã soạn thảo cha mẹ trong dự thảo mở rộng năm 1967, Flyers đã chuyển anh đến Toronto chỉ để Doug Favell Falter cho Philadelphia sau khi được trao công việc bắt đầu.

    Trading The Favell nổi tiếng với Toronto cho Bernie Parent là một trong những quyết định quan trọng nhất trong lịch sử nhượng quyền Philadelphia. & NBSP;

    Được coi là một trong những thủ môn giỏi nhất vào giữa những năm 70, chấn thương lưng đã làm chậm tiến độ của anh vào năm 1974. Ngay sau khi bị chấn thương, một sự cố đáng tiếc với cây gậy của New York Rangers về phía trước Don Maloney buộc cha mẹ phải rời khỏi trò chơi.

    Đưa cha mẹ vào mắt phải, tai nạn đáng tiếc này đã làm hỏng một sự nghiệp đầy hứa hẹn mà dường như không có giới hạn.

    Luôn luôn bị lu mờ bởi Bobby Clarke và những kẻ bắt nạt trên đường phố Broad, cha mẹ là một lực lượng không thể ngăn cản trước khi nghỉ hưu sớm.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 2 danh hiệu Vezina, 2 chiếc cúp Conn Smythe, 5 trò chơi All-Star. : 2 Stanley Cups, 2 Vezina trophies, 2 Conn Smythe trophies, 5 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Sự nghiệp của cha mẹ, trong khi ngắn ngủi, là một trong những sự nghiệp sáng sủa và hứa hẹn nhất mọi thời đại, những người biết những gì anh ấy có thể đạt được nếu không được rút ngắn sự nghiệp. : Parent's career, while short, was one of the brightest and most promising careers of all time—who knows what he could have accomplished had his career not been shortened.

8. Bill Durnan

43 trên 50

    Sự nghiệp của Hội trường danh vọng của Bill Durnan có thể được đánh dấu bằng nhiều thành tựu, nhưng thường có thể bị nhấn chìm trong nhiều tên trong lịch sử Montreal Canadiens. Người chiến thắng trong Six Vezina Trophies, sự nghiệp của Bill Durnan tương đối ngắn sau bảy năm và chỉ có Jacques Plante giành được nhiều Vezinas hơn.

    Durnan cũng lập kỷ lục NHL với bốn lần đóng cửa liên tiếp vào năm 1948-49 và ủng hộ Canadiens đến hai Cup Stanley.

    Năm 1950, Bill Durnan trở thành thủ môn người Canadiens đầu tiên ghi được 200 chiến thắng sau chiến thắng 3-1 trước Boston Bruins.

    Durnan đã cắt ngắn sự nghiệp của mình sau trận bán kết Stanley Cup chống lại New York Rangers, nơi anh yêu cầu huấn luyện viên Montreal Dick Irvin Sr. loại bỏ anh khỏi trò chơi. Sau khi bị cắt trong đầu bởi một chiếc giày trượt, và áp lực để giành chiến thắng khi đối mặt với sự loại bỏ, Durnan đột ngột treo ván trượt.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 6 danh hiệu Vezina, 6 lựa chọn All-Star. : 2 Stanley Cups, 6 Vezina trophies, 6 All-Star selections.

    Điều khiến anh ta khác biệt: & nbsp; Một thủ môn khác có sự nghiệp Montreal đã kết thúc & nbsp; một cách khó hiểu, Durnan là một trong những người giỏi nhất của NHL khi anh ta quyết định nghỉ hưu. & nbsp;: Another goaltender whose Montreal career ended unceremoniously, Durnan was one of the NHL's very best when he decided to retire.  

7. Ken Dryden

44 trên 50

    Ken Dryden kiểm tra ở vị trí thứ 7 trong danh sách 50 thủ môn vĩ đại nhất mọi thời đại của chúng tôi, và tôi phải thừa nhận rằng thật khó để đặt người đàn ông này thấp đến mức này.

    Sự nghiệp Hall of Fame của anh được áp dụng bởi tỷ lệ chiến thắng. Nhiều người có thể tranh luận về sự nghiệp rút ngắn của mình khiến việc đảm bảo xếp hạng trên Hall và Hasek khó khăn, mặc dù Dryden xuất sắc.

    Lập trường huyền thoại của anh ấy trong mạng lưới và khung hình khổng lồ là những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp của anh ấy, và anh ấy thống trị trong vòng playoffs. Anh ta đã dỡ bỏ Juggernaut Bruins trong vòng đầu tiên do Phil Esposito và Bobby Orr dẫn đầu, chỉ một năm sau khi họ giành được tất cả.

    Có lẽ trong một trong những màn trình diễn tuyệt vời nhất của mình, Dryden đã đóng cửa một đội hình Bruins phá kỷ lục NHL, tự hào với bốn cầu thủ ghi bàn hàng đầu của NHL ở Esposito, Orr, Bucyk và Ken Hodge.

    Tất cả điều này trong khi chỉ đăng nhập tổng cộng sáu trận trong mùa giải tân binh của mình, Dryden là một trong những thủ môn bất tử của khúc côn cầu.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 6 Cup Stanley, 5 chiếc cúp Vezina, 1 Conn Smythe Trophy, 1 Calder Trophy, 5 trò chơi All-Star. : 6 Stanley Cups, 5 Vezina trophies, 1 Conn Smythe trophy, 1 Calder trophy, 5 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Một trong những người chơi thông minh nhất để lấy đường ống, Dryden cũng tuyệt vời như anh ấy độc đáo. Kiến thức của anh ấy về trò chơi cho phép anh ấy được chuẩn bị tinh thần và sẵn sàng cho mọi tình huống. Nếu anh ấy chơi lâu hơn, anh ấy có thể là thủ môn tốt nhất mọi thời đại. : One of the most intelligent players to take the pipes, Dryden was as excellent as he was unconventional. His knowledge of the game allowed him to be mentally prepared and ready for any circumstance. Had he played longer, he could be the best goalie of all time.

6. Hội trường Glenn

45 trên 50

    Thường được gọi là "Thủ môn Mr", Glenn Hall là một trong những thủ môn vĩ đại nhất của khúc côn cầu và nắm giữ một chuỗi người sắt thống trị, đối thủ với bất kỳ môn thể thao nào trong 501 trận liên tiếp. Một trong những kỷ lục NHL thực sự không thể chạm tới, Streak của Hall chắc chắn là một trong những thành tựu ấn tượng nhất của anh ấy.

    Khi bạn giải thích cho các trò chơi playoff của anh ấy, số lượng tăng lên 552, khá ấn tượng. Nhưng khi bạn xem xét thực tế rằng 16 trong số 18 mùa NHL của anh ấy đã được sử dụng mà không đeo mặt nạ thủ môn, kỷ lục trở nên phi thường.

    Người tiên phong của phong cách bướm mà chúng ta thấy ngày nay, Glenn Hall thực sự là "Ông thủ môn".

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 3 chiếc cúp Vezina, 1 Conn Smythe Trophy, 1 Calder Trophy, 13 trò chơi All-Star. : 2 Stanley Cups, 3 Vezina trophies, 1 Conn Smythe trophy, 1 Calder trophy, 13 All-Star games.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Hall là một người theo dõi cho mục tiêu hiện đại, phát triển phong cách bướm và thống trị trong nhiều năm làm điều đó. Anh ta chưa một lần ghi lại một mục tiêu trung bình-trung bình dưới 2,97, và trong bảy năm chơi đã dẫn giải đấu năm lần trong lần đóng cửa, với tổng số 45. & NBSP; : Hall was a trailblazer for modern day goaltending, developing the butterfly style and dominated for years doing it. He never once recorded a goals-against average below 2.97, and during seven years of play led the league five times in shutouts, for a grand total of 45. 

5. Dominik Hasek

46 trên 50

    Dave Sandford/Getty Images

    Dominator là một trong những thủ môn vĩ đại nhất và không chính thống nhất mà chúng tôi đã từng có niềm vui khi xem, và biệt danh của anh ấy không thể mô tả người đàn ông này tốt hơn.

    Hasek là một trong ba cầu thủ duy nhất trong lịch sử NHL giành được cả hai danh hiệu Vezina và Hart, và năm 1998 đã trở thành thủ môn đầu tiên giành chiến thắng liên tiếp & NBSP; Hart.

    Hasek có thể là bí mật được giữ bí mật lớn nhất của giải đấu vào đầu những năm 90, và là một điều chưa biết tương đối khi anh ta được đưa vào cứu trợ Ed Belfour trong Trò chơi 4 của trận chung kết Stanley Cup 1992.

    Trong khi sự nghiệp của anh kéo dài một số đội, anh trở thành thủ môn châu Âu đầu tiên giành được một Cup Stanley trong khi ủng hộ Detroit Red Wings.

    Chiến công đáng chú ý nhất của anh ấy có thể là Thế vận hội Nagano năm 1998 khi anh ấy dẫn dắt đội Séc của mình đến Huân chương Vàng, khiến Wayne Gretzky gọi anh ấy là "Người chơi giỏi nhất trong trò chơi". Đăng 0,97 bàn thắng-trung bình một lần nữa và tỷ lệ tiết kiệm 0,961 so với một số cầu thủ giỏi nhất thế giới phải cung cấp, rất có thể được xếp hạng là thành tựu lớn nhất của anh ấy

    Sự nổi tiếng của anh ấy, Has Hasek-flops và người tuyệt vọng tiết kiệm làm nổi bật một phong cách của riêng anh ấy, xếp hạng Hasek trong số những thủ môn vĩ đại nhất mọi thời đại.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 2 Cup Stanley, 6 danh hiệu Vezina, 2 danh hiệu Hart, 3 danh hiệu Jennings. : 2 Stanley Cups, 6 Vezina trophies, 2 Hart trophies, 3 Jennings trophies.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Hasek là một trong những mục tiêu vĩ đại nhất mọi thời đại. Trong một trận đấu bốn lần vào ngày 27 tháng 4 năm 1994 với Devils, anh đã ghi lại 70 pha cứu thua cho chiến thắng. : Hasek was one of the greatest goalies of all time. In a April 27, 1994 quadruple-overtime game against the Devils, he recorded 70 saves for the win.

    Một kỷ lục vẫn còn tồn tại đến ngày nay và một tia sáng đơn thuần về sự vĩ đại thực sự đó là sự nghiệp của Hasek. Hasek cũng bị cướp của một chiếc Cup Stanley thứ ba sau mục tiêu Brett Hull gây tranh cãi được phép trong khung hình ngoài giờ thứ ba.

4. Jacques Plante

47 trên 50

    Plante là một trong những người tiên phong quan trọng nhất của thủ môn trong NHL, và những con số và thành tựu nghề nghiệp của anh ấy nói lên điều đó.

    Ngoài lối chơi tuyệt vời của mình, anh đã phổ biến việc sử dụng mặt nạ khúc côn cầu sau khi lấy một cái tát Andy Bathgate vào mặt và phá vỡ mũi vào ngày 1 tháng 11 năm 1959. & NBSP;

    Plante cũng là một trong những thủ môn đầu tiên chơi bóng bên ngoài

    Vở kịch của anh ấy đã cách mạng hóa vị trí này, thêm một người phòng thủ khác để hỗ trợ dọn dẹp khu vực và chuyển đổi cách chơi theo cách khác.

    Bên cạnh hoạt động đáng chú ý của mình vào năm 1955-1960, trong đó ông đã dẫn dắt Montreal Canadiens tới năm chiếc Stanley Cup liên tiếp, Plante cũng giành được một danh hiệu Seven Vezina đáng kinh ngạc.

    Tuy nhiên, một thủ môn khác theo nhịp của một chiếc trống khác, Plante không phải là không có những điều kỳ quặc của anh ta, điều này cuối cùng dẫn đến việc anh ta ra khỏi Montreal.

    Sau một loạt các cuộc đua dài với các huấn luyện viên và các thành viên của Canadiens, Plante đã được giao dịch với New York Rangers vào ngày 4 tháng 6 năm 1963.

    Bên trong các con số & nbsp ;: 6 Cup Stanley, 7 danh hiệu Vezina, 1 Hart Trophy. : 6 Stanley Cups, 7 Vezina trophies, 1 Hart trophy.

    Điều khiến anh ấy khác biệt & nbsp ;: Plante là một nhà cải tiến thực sự của mục tiêu trong NHL và là một trong những người giỏi nhất từng có giữa các đường ống. Anh ấy là người đầu tiên giới thiệu nhiều khía cạnh chơi mà chúng tôi hiện đang được cấp từ các thủ môn trong NHL hiện đại. : Plante is a true innovator of goaltending in the NHL and one of the very best to ever inbetween the pipes. He was the first to introduce many facets of play we now take for granted from goaltenders in the modern NHL.

3. Martin Brodeur

48 trên 50

    Hình ảnh Al Bello/Getty

    Có rất nhiều điều còn lại để Martin Brodeur hoàn thành một cách chuyên nghiệp, khi anh ấy leo lên mọi ngọn núi và vượt qua mọi thung lũng có thể tưởng tượng được cho một thủ môn NHL.

    Hiện tại, nhà lãnh đạo NHL trong chiến thắng mọi thời đại, đóng cửa playoff, hầu hết các phút chơi, đóng cửa mùa giải thường xuyên và các trò chơi chơi, Brodeur cũng là thủ môn duy nhất trong lịch sử NHL với tám mùa giải 40 trận. Nó sẽ mất một nửa trang này để liệt kê tất cả những thành tựu cá nhân của anh ấy, sự nghiệp của anh ấy thật tuyệt vời.

    Với các xu hướng trong NHL chỉ về phía các lựa chọn trẻ hơn, rẻ hơn, các thủ môn như Brodeur có thể là một giống chó sắp chết ở Nets.

    Sau khi lớn lên xung quanh Montreal Canadiens vì cha mình là Denis Brodeur, Martin đã thần tượng hóa Patrick Roy lớn lên. Anh ấy đã tiếp tục buộc hoặc đánh bại nhiều kỷ lục của Roy, và không được thực hiện khi anh ấy chuẩn bị cho năm thứ 21 của mình trong NHL.

    Bẫy khu vực trung lập hoặc không, Martin Brodeur là dấu hiệu cho thấy sự xuất sắc khi nói đến mục tiêu trong NHL. & NBSP;

    Kỹ năng của anh ta có thể không phải là những gì họ đã từng, nhưng Brodeur & nbsp; có thể đã đẩy thanh của mục tiêu xuất sắc vượt ra ngoài bất cứ ai mà tiếp cận trong tương lai có thể thấy trước.

    Bên trong các con số: 3 Cup Stanley, 4 Trophies Vezina, 1 Calder Trophy, 5 người chiến thắng Trophy Jennings. : 3 Stanley Cups, 4 Vezina trophies, 1 Calder trophy, 5 Jennings trophy winner.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Brodeur là một trong những thủ môn tốt nhất trong thời đại của anh ta, nếu không phải là người giỏi nhất, và buộc NHL phải điều chỉnh các quy tắc của họ để hạn chế tác động của anh ta với puck. : Brodeur is one of the best puckhandling goalkeepers of his era, if not the best ever, and forced the NHL to adapt their rules to limit his impact with the puck.

2. Terry Sawchuk

49 trên 50

    Somber, long trọng và im lặng, Terry Sawchuk là một trong những nhân vật đáng nhớ nhất khúc côn cầu trên mạng. Có biệt danh là Yukey, từ di sản Ukraine của mình, anh đã dẫn dắt Detroit tới ba danh hiệu Stanley Cup chỉ trong năm năm và là một trong những người vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay.

    Trong vòng playoff 1951-52, màn trình diễn của Sawchuck, là một trong những thời đại khi anh chỉ cho phép năm bàn thắng trong tám trận đấu. Ghi lại bốn lần đóng cửa trong trận đấu playoff đó, Sawchuk là lực lượng đằng sau Red Wings càn quét cả Toronto Maple Leafs và Montreal Canadiens trên đường đến Stanley Cup.

    Sự to lớn như sự nghiệp và lối chơi của anh ấy, câu chuyện của anh ấy là một trong những bi kịch và sự hy sinh cuối cùng dưới danh nghĩa thành công của đội. Vô số chấn thương đã gây thiệt hại cho họ, từ từ cướp Sawchuk về sức khỏe và cách sống của anh ta nhưng không bao giờ ngăn anh ta chơi cho đội của mình.

    Sau khi tổng giám đốc Detroit Jack Adams ra lệnh cho Sawchuck giảm cân trước mùa giải 1951-52, thủ môn đấu tranh với cân nặng và bệnh tật của mình. Được giao dịch với Boston Bruins vào mùa hè năm 1955, Sawchuk đã ký hợp đồng bệnh bạch cầu đơn nhân vào cuối năm 1956 và nghỉ hưu từ khúc côn cầu sau một cuộc đấu tranh lâu dài với sức khỏe của mình.

    Sawchuk trở lại sau khi được Red Wings mua lại vào năm 1957, đeo bánh xe có cánh trong bảy mùa nữa trước khi được Toronto tuyên bố trong dự thảo Intraleague.

    Ở tuổi 37, Sawchuk đã hợp tác với Johnny Bower để trao Giải vô địch Stanley Cup cho kẻ thua kém nặng nề, Maple Leafs. & NBSP;

    Một trong những thủ môn vĩ đại nhất mọi thời đại, Sawchuk có thể ngăn chặn mọi thứ nhưng bị ám ảnh bởi những cuộc đấu tranh cá nhân và tình trạng sức khỏe nghiêm trọng của chính mình.

    Bên trong các con số: 4 Cup Stanley, 4 danh hiệu Vezina, 1 Calder Trophy, 1 Lester Patrick Trophy. : 4 Stanley Cups, 4 Vezina trophies, 1 Calder trophy, 1 Lester Patrick trophy.

    Điều khiến anh ta khác biệt: Sawchuk là thủ môn khó khăn nhất từng được đeo trên miếng đệm. Trong thời đại mà thủ môn chơi có thể phá vỡ tinh thần của một người đàn ông, anh ta đã thống trị khi các cổ phần cao nhất. : Sawchuk is the toughest goaltender to ever strap on the pads. During an age where playing goaltender could break a man’s spirit, he dominated when the stakes were highest.

    Trong thời đại mà thiết bị thủ môn hầu như không hoạt động và bạn không có bản sao lưu để giải tỏa bạn, Sawchuk chiếm ưu thế. & NBSP;

1. Patrick Roy

50 trên 50

    Bạn sẽ nhận được rất nhiều phản hồi từ các chuyên gia và người hâm mộ về Patrick Roy, tốt hay xấu. Tuyệt vời như anh ấy, anh ấy đã phạm một phần của mình về những sai lầm cả trong và ngoài băng. Nhưng ý chí chiến thắng của anh ấy là một điều mà bạn không thể phủ nhận, một đặc điểm ngay cả những kẻ gièm pha nhiệt tình nhất của anh ấy không thể từ chối.

    Thánh Patrick có thể không phải là thủ môn hoàn hảo, nhưng khi chiến thắng trong NHL, anh ấy là người vĩ đại nhất mọi thời đại. & NBSP;

    Sự tự tin và đĩnh đạc của anh ấy khi đối mặt với nghịch cảnh là rất lớn, và khả năng giành chiến thắng của anh ấy là vô song. Sự vênh vang trên băng của anh ta là vũ khí mà người chặn hoặc găng tay của anh ta là, và không ai khó khăn hơn về mặt tinh thần.

    Patrick Roy chỉ đơn giản áp đặt ý chí của mình để giành chiến thắng bất kể tình huống hay tỷ lệ cược, và phát triển mạnh khi thách thức trực tiếp.

    Giữ tỷ số 2-0 trong trận play-off năm 1993, huấn luyện viên thủ môn của Quebec Nordiques Daniel Bouchard tuyên bố một cách dại dột rằng họ đã tìm thấy điểm yếu của Roy. Và Quebec đã phát hiện ra một cách khó khăn mà Patrick Roy didn chỉ muốn chứng minh bạn sai, anh ta muốn làm bạn xấu hổ trong khi làm điều đó.

    Montreal Canadiens đã loại bỏ Nordiques bằng cách chiến thắng bốn trận tiếp theo, và tiếp tục đánh bại các vị vua cho Stanley Cup. Roy thật đáng kinh ngạc, chiến thắng 10 cuộc thi ngoài giờ liên tiếp, ba trận đấu với các vị vua do Gretzky dẫn đầu trong trận chung kết Stanley Cup cho chiếc Cúp Conn Smythe đầu tiên của anh ấy và Stanley Cup.

    Với một tinh thần cạnh tranh bất khuất và một cơn khát chiến thắng không thể chối cãi, Roy là người giỏi nhất của anh ấy khi cổ phần và áp lực là lớn nhất. & nbsp;

    Bên trong các con số: 4 Cup Stanley, 3 danh hiệu Vezina, 3 danh hiệu Conn Smythe, 5 danh hiệu Jennings. : 4 Stanley Cups, 3 Vezina trophies, 3 Conn Smythe trophies, 5 Jennings trophies.

    Điều khiến anh ấy khác biệt: Patrick Roy là người chơi duy nhất trong lịch sử NHL giành được ba danh hiệu Conn Smythe. Anh ấy cũng là một trong ba thủ môn với 900 trận đấu, và cũng giữ kỷ lục NHL với 12 mùa giải 30 trận. & NBSP;: Patrick Roy is the only player in NHL history to win three Conn Smythe trophies. He’s also one of only three goalies with 900 games, and also holds the NHL record with 12 30-win seasons. 

Ai là thủ môn NHL tốt nhất ngay bây giờ?

1. Andrei Vasilevskiy.Mặc dù mùa giải 2021-22 không phải là tốt nhất của anh ấy, Andrei Vasilevskiy vẫn là thủ môn số một không thể tranh cãi của NHL.Andrei Vasilevskiy. Though the 2021-22 season wasn't his best, Andrei Vasilevskiy remains the NHL's undisputed number one goaltender.

Ai là thủ môn tốt nhất trong NHL 2022?

10 thủ môn hàng đầu trong NHL cho mùa giải 2022-23..
Juuse Saros, động vật ăn thịt.....
Jacob Marksstrom, Ngọn lửa.....
Ilya Sorokin, người dân đảo.....
Frederik Andersen, Bão.....
Thatcher Demko, Canucks.....
Connor Hellebuyck, máy bay phản lực.....
Tristan Jarry, Chim cánh cụt.....
Marc-Andre Fleury, hoang dã ..

Ai là thủ môn tốt nhất trong NHL 2021?

Thủ môn hay nhất cho mùa giải 2021-22 được các nhà văn NHL.com tranh luận..
Mackenzie Blackwood, New Jersey Devils ..
Darcy Kuemper, Colorado Avalanche ..
Semyon Varlamov, Người dân đảo New York ..

Ai là cầu thủ thủ môn tốt nhất?

Đến năm 2021, thủ môn Gianluigi Buffon của người Ý giữ kỷ lục về hầu hết các chiến thắng [cùng với Manuel Neuer và Iker Casillas].Gianluigi Buffon holds the record for most wins [alongside Manuel Neuer and Iker Casillas].

Chủ Đề