Vì sao indonesia theo đạo hồi

Mục lục

Thời tiền sửSửa đổi

Về mặt địa chất, vùng lãnh thổ của Indonesia, là quần đảo, là nơi gặp nhau của 3 mảng địa chất lớn: Mảng Á-Âu, Mảng Ấn-Úc, Mảng Thái Bình Dương. Quần đảo Indonesia được hình thành như ngày nay là nhờ vào sự tan chảy của băng vào thời kỳ băng hà xảy ra khoảng 10000 năm trước.

Tại giai đoạn Thế Pleistocen, quần đảo này vẫn còn gắn liền với lục địa châu Á đã chứng kiến dòng người định cư đầu tiên. Bằng chứng cho sự hiện diện, cư trú tại đây là những hóa thạch của người Homo Erectus Java khoảng từ 2 triệu đến 500.000 năm trước. Khám phá về người Homo floresiensis tại Liang Bua, Flores đã đưa ra giả thuyết có khả năng sự tồn tại của người H. Homo đến cuối kỷ băng hà.

Homo sapiens được cho rằng đã đến vùng quần đảo này khoảng 100.000 năm trước bằng cách men theo dải bờ biển của lục địa châu Á từ vùng Tây Á và đến khoảng 60.000-70.000 năm trước đã tới được New Guinea và Australia. Họ với đặc tính da ngăm đen, tóc xoăn là tổ tiên của người bản xứ của quần đảo Melanesia [bao gồm cả Papua].

Thời tiền thực dânSửa đổi

Giai đoạn đầu lịch sửSửa đổi

Các học giả người Ấn Độ đã viết về quần đảo của người Indonesia và các vương quốc Hindu của người Dwipa Java khoảng 200 năm TCN. Bằng chứng về sự hiện diện của nó còn sót lại đề cập đến 2 vương quốc đạo Hindu vào thế kỷ thứ 5 là Liên minh Tarumanagara kiểm soát phía Tây Java và vương quốc Kutai tại vùng ven sông Mahakam, Borneo. Vào năm 425 đạo Phật đã được du nhập vào vùng này.

Khi châu Âu tiến tới thời kỳ phục hưng, quần đảo của người Indonesia đã trải qua hàng ngàn năm văn minh với sự thống trị của 2 vương quốc lớn là Srivijaya tại Sumatra, và Majapahit tại Java. Cả hai vương quốc lớn này đều có rất nhiều các quốc gia chư hầu nhỏ xung quanh, liên hệ với nhau qua buôn bán thương mại.

Các vương quốc đạo Hindu và đạo PhậtSửa đổi

Vào khoảng thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 7, tại vùng Tây Java, các vương quốc theo đạo Hindu và đạo Phật là vương quốc Tarumanagara và vương quốc người Sunda đến tận thế kỷ 16.

Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, vương quốc đạo Phật Sriwijaya tại Sumatra phát triển nhanh chóng. Nhà thám hiểm Nghĩa Tịnh người Trung Quốc đã viếng thăm thủ đô của Palembang khoảng năm 670. Vào giai đoạn hưng thịnh, Srivijaya kiểm soát vùng lãnh thổ rộng lớn gồm Java, bán đảo Malay.

Thế kỷ 14 chứng kiến sự nổi lên của vương quốc Hindu tại Đông Java. Patih Majapahit từ 1331 đến 1364. Vua Gajah Mada đã giành được quyền lực trên toàn vùng lãnh thổ mà ngày nay là Indonesia và hầu hết bán đảo Malaysia. Di sản để lại các bộ luật được biên soạn ra đời, và được xem như thiên sử thi Ramayana.

Đế chế Hồi giáoSửa đổi

Đạo Hồi trở thành quốc giáo tại Indonesia vào khoảng thế kỷ 12, nhưng thực tế đạo Hồi đã đến quần đảo này vào thế kỷ thứ 7. Vào khoảng thời gian đó các tuyến đường biển tấp nập, là con đường quốc tế nối nhà Đường [Trung Quốc], Srivijaya [Đông Nam Á], và Umayyads [Tây Á] từ thế kỷ thứ 7.

Theo như nguồn tài liệu còn lại của Trung Quốc, vào giai đoạn cuối 3/4 của thế kỷ thứ 7, 1 thương nhân người Ả Rập trở thành lãnh tụ của những người định cư Ả Rập Đạo Hồi tại bờ biển Sumatra. Đạo Hồi gây ảnh hưởng mạnh đến các thể chế chính trị lúc đó. Điều này có thể thấy rõ khi năm 718, vua Srindravarman của Sriwijaya Jambi đã gửi 1 bức thư cho Khalip Umar bin Abdul Aziz của triều Umayyad Caliphate để yêu cầu gửi 1 người thuyết giáo tới để giải thích những thắc mắc của ông về đạo Hồi. 2 năm sau, vào năm 720, vua Srindravarman đã cải đạo từ Hindu sang đạo Hồi. Sriwijaya Jambi cũng được biết với cái tên Sribuza Islam. Nhưng thật không may sau đó năm 730 Srindravarman bị bắt bởi Sriwijaya Palembang, người theo đạo Phật.

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

Bài chi tiết: Tên gọi Indonesia

Chữ Indonesia xuất phát từ từ Indus trong tiếng Latinh, có nghĩa "Ấn Độ", và từ nesos trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa "hòn đảo".[13] Tên gọi này đã có từ thế kỷ XVIII, rất lâu trước khi nhà nước Indonesia độc lập hình thành.[14] Năm 1850, George Earl, một nhà phong tục học người Anh, đã đề xuất thuật ngữ Indunesians — và, từ được ông thích hơn, Malayunesians — để chỉ những người dân sống trên "Quần đảo Ấn Độ hay Quần đảo Malaya".[15] Cũng trong bài viết đó, một sinh viên của Earl là James Richardson Logan, đã sử dụng Indonesia như một từ đồng nghĩa với Quần đảo Ấn Độ.[16] Tuy nhiên, các tài liệu của viện hàn lâm Hà Lan viết về Đông Ấn đã lưỡng lự trong việc sử dụng Indonesia. Thay vào đó, họ dùng thuật ngữ Quần đảo Malay [Maleische Archipel]; Đông Ấn Hà Lan [Nederlandsch Oost Indië], khái quát chung Indië; phương Đông [de Oost]; và thậm chí Insulinde.[17]

Từ năm 1900, tên gọi Indonesia trở nên phổ thông hơn trong các cộng đồng hàn lâm bên ngoài Hà Lan, và các nhóm quốc gia Indonesia đã chấp nhận từ này trong cách thể hiện chính trị.[18] Adolf Bastian, thuộc Đại học Berlin, đã giúp từ này được biết đến rộng rãi hơn qua cuốn sách Indonesien oder die Inseln des Malayischen Archipels, 1884–1894 của ông. Học giả Indonesia đầu tiên sử dụng thuật ngữ này là Suwardi Suryaningrat [Ki Hajar Dewantara], khi ông thiết lập một văn phòng báo chí tại Hà Lan với tên gọi Indonesisch Pers-bureau in 1913.[14]

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Indonesia
Hình khắc một con tàu tại Borobudur, khoảng năm 800. Ngay từ thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên các con tàu của Indonesia đã thực hiện các chuyến buôn tới tận Châu Phi.
Một xưởng sản xuất chè tại Jakarta khoảng thập niên 1860, thời kỳ Indonesia thuộc Hà Lan

Các di tích hoá thạch của người Homo erectus, thường được gọi là "Người Java", cho thấy quần đảo Indonesia đã có người ở từ hai triệu năm tới 500.000 năm trước.[19]Người Nam Đảo, là cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ Đài Loan. Họ tới Indonesia từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesia bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi họ mở rộng lãnh thổ.[20] Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên,[21] cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên.[22] Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia.[23]

Từ thế kỷ thứ bảy, vương quốc hàng hải Srivijaya hùng mạnh phát triển nhờ thương mại và các ảnh hưởng của Hindu giáo cùng Phật giáo được du nhập vào cùng thương mại.[24] Từ thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ thứ X, các triều đại nông nghiệp Phật giáo Sailendra và Hindu giáo Medang phát triển và suy tàn trong vùng nội địa Java, để lại các công trình tôn giáo lớn như Borobudur của Sailendra và Prambanan của Medang. Vương quốc Hindu Majapahit được thành lập ở phía đông Java hồi cuối thế kỷ XIII, và ở thời Gajah Mada, ảnh hưởng của nó đã lan rộng tới hầu hết Indonesia; giai đoạn này thường được coi là một "Thời kỳ Huy hoàng" trong lịch sử Indonesia.[25]

Dù các thương gia Hồi giáo đã lần đầu đi qua Đông Nam Á từ đầu thời kỳ Hồi giáo, bằng chứng sớm nhất về cộng đồng dân cư Hồi giáo tại Indonesia có niên đại từ thế kỷ XIII ở phía bắc Sumatra.[26] Các vùng khác của Indonesia dần chấp nhận Hồi giáo, và nó đã là tôn giáo ưu thế tại Java và Sumatra từ cuối thế kỷ XVI. Ở hầu hết các nơi, Hồi giáo vượt lên và pha trộn với các ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo bản địa, hình thành nên hình thức Hồi giáo hiện tại ở Indonesia, đặc biệt tại Java.[27] Những người châu Âu đầu tiên tới Indonesia năm 1512, khi các thương gia Bồ Đào Nha, do Francisco Serrão dẫn đầu tìm cách thâu tóm các nguồn tài nguyên nhục đậu khấu, đinh hương, và hạt tiêu tại Maluku.[28] Các thương gia Hà Lan và Anh nhanh chóng theo chân. Năm 1602, Hà Lan thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan [VOC] và trở thành một quyền lực lớn của châu Âu. Sau khi bị phá sản, Công ty Đông Ấn Hà Lan chính thức bị giải tán năm 1800, và chính phủ Hà Lan thành lập Đông Ấn Hà Lan như một thuộc địa được quốc hữu hóa.[29]

Sukarno, vị Tổng thống sáng lập Indonesia

Trong hầu hết thời gian của thời kỳ thuộc địa, Hà Lan chỉ kiểm soát vùng đất này một cách lỏng lẻo; chỉ tới đầu thế kỷ XX Hà Lan mới thực sự kiểm soát toàn bộ vùng đất lãnh thổ Indonesia hiện tại.[30] Cuộc xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản sau đó trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt thời kỳ cai trị của Hà Lan,[31] và khuyến khích phong trào độc lập từng bị đàn áp trước đó ở Indonesia. Hai ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng tháng 8 năm 1945, Sukarno, một lãnh đạo ảnh hưởng theo chủ nghĩa quốc gia, tuyên bố độc lập và được chỉ định làm tổng thống.[32] Người Hà Lan đã tìm cách tái lập quyền cai trị, và cuộc tranh giành ngoại giao và vũ trang đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1949, khi đối mặt với sức ép quốc tế, Hà Lan chính thức công nhận nền độc lập của Indonesia[33] [ngoại trừ lãnh thổ Hà Lan Tây New Guinea, đã được tích hợp theo Thoả thuận New York năm 1962, và Đạo luật Tự do Lựa chọn được Liên hiệp quốc uỷ thác].

Sukarno chuyển từ dân chủ sang chủ nghĩa độc đoán, và duy trì cơ sở quyền lực bằng cách cân bằng các lực lượng đối lập trong quân đội, và Đảng Cộng sản Indonesia [PKI].[34] Quân đội âm mưu đảo chính ngày 30 tháng 9 năm 1965, dẫn tới Các vụ giết người tại Indonesia 1965-1966, một phong trào thanh trừng chống cộng trong đó Đảng Cộng sản Indonesia bị cáo buộc âm mưu đảo chính, các đảng viên Cộng sản bị săn lùng và tiêu diệt.[35] Khoảng 500 nghìn tới 1 triệu người bị cho là có liên hệ với Đảng Cộng sản Indonesia đã bị giết hại.[36] Lãnh đạo quân đội, Tướng Suharto, công khai làm suy yếu vị trí chính trị của Sukarno, và được chính thức chỉ định làm tổng thống vào tháng 3 năm 1968. Chính sách Trật tự Mới của ông[37] được chính phủ Mỹ ủng hộ,[38] và khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Indonesia, đây là một yếu tố chính dẫn tới ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế ổn định sau đó.[39] Tuy nhiên, sự độc đoán của chính sách "Trật tự Mới" bị chỉ trích rộng rãi vì tình trạng tham nhũng và đàn áp chính trị đối lập.

Năm 1997 và 1998, Indonesia là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc Khủng hoảng Tài chính châu Á.[40] Điều này càng khiến sự bất mãn của dân chúng với Trật tự Mới gia tăng[41] và dẫn tới các cuộc tuần hành dân chúng. Suharto từ chức ngày 21 tháng 5 năm 1998.[42]

Xung đột sắc tộc ở Indonesia đã mang lại những vụ việc đẫm máu. Vào năm 1965, hàng chục nghìn người Hoa bị giết hại trong phong trào chống Cộng ở Indonesia. Sau sự kiện này, các trường dạy tiếng Trung Quốc bị đóng cửa, chữ viết Trung Quốc bị cấm. Chính quyền cũng cấm người Hoa tổ chức những ngày lễ, tết truyền thống, hạn chế nói tiếng Trung Quốc ở nơi công cộng. Các quan chức cho rằng ngôn ngữ Trung Quốc đối với người Indonesia cũng "nguy hiểm như vũ khí". Mãi đến thời cựu tổng thống Abdurrahman Wahid, tình hình mới dễ thở hơn cho người Hoa ở Indonesia - họ được phép sử dụng chữ viết của mình và kỷ niệm những ngày lễ, tết truyền thống. Trong cuộc biến động năm 1998, tâm lý thù ghét người Hoa khiến họ bị biến thành mục tiêu của bạo lực. Tháng 5/1998, những phần tử cực đoan đã cướp bóc, đốt tài sản của Hoa kiều, tấn công nhiều người. Gần 170 phụ nữ gốc Trung Quốc bị cưỡng hiếp, hậu quả là 20 người chết[43]

Năm 1999, Đông Timor bỏ phiếu ly khai khỏi Indonesia, sau một cuộc xâm chiếm quân sự dài 25 năm được đánh dấu bởi những lời lên án quốc tế và những vụ đàn áp thường xuyên với người Đông Timor.[44] Từ khi Suharto từ chức, một quá trình tăng cường dân chủ gồm cả một chương trình trao quyền tự trị cho các vùng, và cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp năm 2004. Tình trạng bất ổn chính trị và kinh tế, bất ổn xã hội, tham nhũng và chủ nghĩa khủng bố đã giảm sút đáng kể. Dù các quan hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc phần lớn hài hòa, những vấn đề bất đồng và bạo lực tại một số khu vực vẫn thỉnh thoảng xảy ra.[45] Một cuộc dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực hiện năm 2005.[46]

Địa lýSửa đổi

Bài chi tiết: Địa lý Indonesia

Indonesia gồm 13.487 hòn đảo, khoảng 6.000 trong số đó không có người ở.[47] Các hòn đảo nằm rải rác ở cả hai phía đường xích đạo. Năm hòn đảo lớn nhất là Java, Sumatra, Kalimantan [phần Borneo thuộc Indonesia], New Guinea [cùng chung với Papua New Guinea], và Sulawesi. Indonesia có biên giới trên bộ với Malaysia trên hòn đảo Borneo và Sebatik, Papua New Guinea trên đảo New Guinea, và Đông Timor trên đảo Timor. Indonesia cũng có chung biên giới với Singapore, Malaysia, và Philippines ở phía bắc và Australia ở phía nam bằng một dải nước hẹp. Thủ đô, Jakarta, nằm trên đảo Java là thành phố lớn nhất nước, sau đó là Surabaya, Bandung, Medan, và Semarang.[48] Với đặc điểm địa lý trên, Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo".

Với diện tích 1.907.540km² [741.050 dặm vuông], Indonesia là nước đứng thứ 14 trên thế giới về diện tích đất liền.[49] Mật độ dân số trung bình là 142 người trên km² [347 trên dặm vuông], đứng thứ 80 trên thế giới,[50] dù Java, hòn đảo đông dân nhất thế giới,[51] có mật độ dân số khoảng hơn 1000 người trên km² [2.435 trên dặm vuông]. Nằm ở độ cao 4.884 mét [16.024ft], Puncak Jaya tại Papua là đỉnh cao nhất Indonesia, và hồ Toba tại Sumatra là hồ lớn nhất, với diện tích 1.145km² [442 dặm vuông]. Các con sông lớn nhất nước này nằm ở Kalimantan, và gồm các sông Mahakam và Barito; những con sông này là các đường giao thông quan trọng nối giữa các khu định cư trên đảo.[52]

Núi Semeru và Núi Bromo tại Đông Java. Hoạt động kiến tạo và núi lửa Indonesia ở mức cao nhất trên thế giới.

Indonesia nằm trên các rìa của các mảng Thái Bình Dương, Âu-Á, và Úc khiến nước này trở thành nơi có nhiều núi lửa và thường xảy ra các vụ động đất. Indonesia có ít nhất 150 núi lửa đang hoạt động,[53] gồm cả Krakatoa và Tambora, cả hai núi lửa này đều đã có những vụ phun trào gây phá hủy lớn trong thế kỷ XIX. Vụ phun trào siêu núi lửa Toba khoảng 70.000 năm trước, là một trong những vụ phun trào lớn nhất từng xảy ra và là một thảm họa toàn cầu. Những thảm họa gần đây liên quan tới hoạt động kiến tạo gồm vụ sóng thần năm 2004 đã giết hại tổng cộng gần 230.000 người[54] và khoảng 168.000 người tính riêng phía bắc Sumatra,[55] và trận động đất Yogyakarta năm 2006. Tuy nhiên, tro núi lửa là một yếu tố đóng góp vào sự màu mỡ của đất trong lịch sử từng giúp nuôi sống mật độ dân cư dày tại Java và Bali.[56]

Nằm dọc theo xích đạo, Indonesia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với hai mùa mưa và khô riêng biệt. Lượng mưa trung bình hàng năm tại các vùng đất thấp khoảng từ 1.780–3.175 milimét [70–125in], và lên tới 6.100 milimét [240in] tại các vùng núi. Các vùng đồi núi—đặc biệt ở bờ biển phía tây Sumatra, Tây Java, Kalimantan, Sulawesi, và Papua—có lượng mưa lớn nhất. Độ ẩm nói chung cao, trung bình khoảng 80%. Nhiệt độ ít thay đổi trong năm; trung bình tại Jakarta là 26–30°C [79–86°F].[57]

Rừng nhiệt đới ẩm chiếm gần 2/3 diện tích lãnh thổ. Đất canh tác 8% [3% được tưới], đồng cỏ 10%, rừng và cây bụi 67%, các đất khác 15%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, niken, bauxit, đồng, than, vàng, bạc.

Sinh tháiSửa đổi

Đười ươi Sumatra một loài linh trưởng lớn đặc hữu của Indonesia có nguy cơ tuyệt chủng cao

Diện tích, khí hậu nhiệt đới cùng với hình thế địa lý quần đảo của Indonesia khiến nước này có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ hai thế giới—chỉ sau Brazil[58]— và hệ động thực vật của nó là sự pha trộn của các giống loài châu Á và Australasia.[59] Khi còn kết nối với lục địa châu Á, thềm Sunda [Sumatra, Java, Borneo, và Bali] có hệ động vật châu Á rất phong phú. Các loài thú lớn như hổ, tê giác, đười ươi, voi, và báo, từng hiện diện với số lượng lớn tới tận phía đông Bali, nhưng số lượng và diện tích phân bố của chúng đã giảm mạnh, đặc biệt ở Indonesia có loài Rồng komodo [Varanus komodoensis] là loài thằn lằn lớn nhất thế giới, chiều dài con lớn trung bình 2–3 m. Đây là một loại thuộc họ kỳ đà, [Varanidae], và sống trên nhiều đảo của Indonesia, năm 2011 con vật này đã được chọn làm biểu tượng linh vật của SEA Games 26. Rừng bao phủ khoảng 60% đất nước.[60] Tại Sumatra và Kalimantan, có rất nhiều loài động vật châu Á. Tuy nhiên, rừng đang suy giảm, và số lượng dân cư đông đảo tại Java càng khiến tình trạng phá rừng tăng cao lấy đất sinh sống và canh tác. Sulawesi, Nusa Tenggara, và Maluku—từng tách rời khỏi lục địa từ lâu—đã phát triển hệ động thực vật của riêng mình.[61] Papua từng là một phần của lục địa Úc, và là nơi có hệ động vật duy nhất có liên quan gần gũi với hệ động thực vật Australia, với hơn 600 loài chim.[62]

Mặc dù có mùi hôi rất nồng nặc và khủng khiếp giống như mùi thịt rữa, Rafflesia arnoldii vẫn được chọn là một trong ba quốc hoa của Indonesia

Indonesia đứng thứ hai chỉ sau Australia về mức độ loài đặc hữu, với 26% trong tổng số 1.531 loài chim và 39% trong tổng số 515 loài có vú là động vật đặc hữu.[63] Bờ biển dài 80.000 kilômét [50.000 dặm] của Indonesia được bao quanh bởi các biển nhiệt đới cũng đóng góp vào mức độ đa dạng sinh thái cao của nước này. Indonesia có nhiều hệ sinh thái biển và bờ biển, gồm các bãi biển, đụn cát, cửa sông, bãi lầy, rặng san hô, bãi cỏ biển, bãi bùn ven biển, bãi thuỷ triều, bãi tảo, và các hệ sinh thái nhỏ trong đất liền.[13] Nhà tự nhiên học người Anh, Alfred Wallace, đã mô tả về một đường ranh giới phần bố giữa các loài châu Á và châu Úc.[64] Được gọi là đường Wallace, chạy gần theo hướng bắc nam dọc theo cạnh Thềm Sunda, giữa Kalimantan và Sulawesi, và dọc theo Eo Lombok sâu, giữa Lombok và Bali. Phía tây đường này hệ động thực vật mang nhiều đặc điểm châu Á; về phía đông Lombok, hệ động thực vật dần mang đặc điểm Australia. Trong cuốn sách The Malay Archipelago năm 1869, Wallace đã miêu tả nhiều loài động vật duy chỉ có ở vùng này.[65] Vùng đảo giữa đường Wallace và New Guinea hiện được gọi là Wallacea.[64]

Dân số cao và cuộc công nghiệp hóa nhanh chóng của Indonesia đặt ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng và thường không được chú trọng nhiều vì mức độ nghèo đói cao cũng như sự quản lý yếu kém với các nguồn tài nguyên.[66] Các vấn đề này gồm phá rừng trên quy mô lớn [đa số là trái phép] và những trận cháy rừng gây ra những đám khói dày che phủ nhiều vùng phía tây Indonesia, Malaysia và Singapore; khai thác quá mức các nguồn tài nguyên biển; và các vấn đề môi trường đi liền với sự đô thị hóa và phát triển kinh tế quá nhanh, gồm ô nhiễm không khí, tắc đường, quản lý rác, và xử lý nước thải.[66] Phá hủy môi trường sống đe doạ sự tồn tại của các loài bản địa và đặc hữu, gồm 140 loài thú được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế [IUCN] xác định là đang bị đe dọa, và 15 loài được coi là bị đe dọa tuyệt chủng, gồm cả đười ươi Sumatra [Sumatran Orangutan].[67]

Vẻ đẹp mộc mạc của cuộc sống thường ngày ở làng quê Indonesia

VOV.VN- Một nhiếp ảnh gia ở Indonesia đã chụp lại những khoảnh khắc đẹp về cuộc sống hàng ngày rất bình dị của người dân các làng quê ở ngoại ô thủ đô Jakarta.

Giáo hội Indonesia, những cơ hội và thách đố

Với gần 90% dân số theo Hồi giáo tại một đất nước hơn 260 triệu người, Indonesia là quốc gia có số tín hữu Hồi giáo đông nhất thế giới. Tuy nhiên, Indonesia không tuyên bố là một quốc gia Hồi giáo.

Văn Yên, SJ - Vatican

Ngày 11 tháng 6 vừa qua, các giám mục Indonesia đã đến Roma để viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô và thăm Toà Thánh trong chuyến viếng thăm Ad Limina. Nhân dịp này, chúng tôi xin gởi đến quý vị một vài nét về Giáo hội Công giáo tại Indonesia.

Đất nước Indonesia rộng 1 triệu 900 ngàn kilômét vuông với dân số khoảng 262 triệu người theo thống kê năm 2017. Xét theo tỉ lệ phần trăm theo tôn giáo thì Hồi giáo chiếm đa số với 88%, Kitô giáo khoảng 10% trong đó chỉ 3,12% Công giáo. Và một thiểu số còn lại theo Ấn giáo, Phật giáo và đạo thờ vật linh. Với số tín hữu Hồi giáo như thế, Indonesia là nước có số người theo Hồi giáo đông nhất thế giới.

Theo thống kê năm 2016, số tín hữu Công giáo ở Indonesia khoảng 8 triệu, thuộc 5 giáo tỉnh và 1 giáo hạt quân đội. Chủ tịch HĐGM Indonesia là Đức Cha Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo, TGM giáo phận Jakarta.

Sơ lược lịch sử

Công cuộc loan báo Tin Mừng trên quần đảo Indonesia bắt đầu với các tàu buôn của người Bồ Đào Nha và người Hà Lan vào thế kỷ 16. Năm 1534 những người Bồ Đào Nha thiết lập việc truyền giáo Công giáo tại đảo Maluku, đến năm 1546, thánh Phanxicô Xaviê đã viếng thăm các đảo Sulawesi và Maluku. Đến cuối thế kỷ 16, người Hà Lan đến và truyền giáo Tin lành Calvin.

Công giáo bị cấm mãi đến đầu thế kỷ 19, các nhà truyền giáo Công giáo mới trở lại. Sau đó, các sơ Dòng Orsoline mở một ngôi trường ở Jakarta. Các vùng truyền giáo được giao cho các tu sĩ Dòng Tên. Các sơ dòng Phansinh mở một cô nhi viện tại Trung Java.

Năm 1897, một cha Dòng Tên, người Hà Lan, Franciscus Georgius Josephus van Lith [1863 - 1926], thành lập một cứ điểm truyền giáo ở Trung Java. Ngài là một nhà giáo dục vĩ đại, đã thành lập nhiều trường học từ đó sinh ra những nhân cách trổi vượt của Indonesia, trong đó có Đức cha Soegijapranata, Dòng Tên, giám mục bản xứ đầu tiên của đất nước.

Năm 1924, tại Jakarta, lần đầu tiên tất cả các giám mục Indonesia họp nhau.

Trong những năm Indonesia bị Nhật Bản chiếm đóng [1942-1946], hầu hết các nhà thừa sai bị cầm tù hoặc đưa đến các trại tập trung. Nhiều người đã chết trong những trại này.

Đến năm 1950, quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Indonesia được thiết lập. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viếng thăm Jakarta năm 1970 trong chuyến tông du đến Đông Á và Châu Đại Dương. Sau đó, ĐGH Gioan Phaolô II cũng đã viếng thăm Indonesia năm 1989. Gần đây nhất, năm 2015, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh đã viếng thăm chính thức Indonesia và có nhiều hoạt động về đối thoại liên tôn, cộng tác văn hoá, xuất bản và giáo dục.

Đời sống Giáo hội

Các giám mục Indonesia đặc biệt chú ý đến những người trẻ, để họ giữ vai trò chính trong việc tuyên xưng Chúa Kitô trong xã hội đa văn hóa của Indonesia và trở nên “tác nhân thay đổi” công lý và hòa bình trên đất nước của họ.

Trong tinh thần này, các giám mục đã phát động Ngày Giới trẻ Indonesia từ năm 2012, được tổ chức mỗi 4 năm, quy tụ những người Công giáo trẻ từ khắp nơi của Indonesia. Chủ đề được chọn cho 2 lần Ngày giới trẻ Indonesia 2012 và 2016 lần lượt là “100% Công giáo, 100% Indonesia” và “Niềm vui của Tin mừng trong xã hội đa nguyên Indonesia”. Không chỉ có Ngày giới trẻ quốc gia, Indonesia cũng lần đầu tiên đăng cai tổ chức Ngày Giới trẻ Châu Á năm 2017.

Cùng với giới trẻ, các giám mục cũng muốn phát huy vai trò hàng đầu của các gia đình Công giáo trong việc loan báo Tin Mừng trong xã hội đa nguyên Indonesia. Đây là kết quả Đại hội Quốc gia của Giáo hội Công giáo Indonesia về gia đình [tại Sagki 2015] với chủ đề: “Gia đình Công giáo, Tin Mừng của Hy vọng. Ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong Giáo hội và xã hội Indonesia đa nguyên”. Đây cũng là cơ hội khẳng định sự quan tâm của Giáo hội đối với các vấn đề và đau khổ của các gia đình Indonesia và tái khẳng định vai trò chủ chốt của gia đình trong xã hội.

Các hướng mục vụ của Giáo hội Indonesia được đặt theo chỉ dẫn của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng và mô hình Giáo hội đi ra, trong bối cảnh phức tạp và đa dạng về tôn giáo, văn hóa và xã hội. Vì thế, Giáo hội Indonesia tăng cường việc đối thoại liên tôn và thúc đẩy các sáng kiến bác ái.

Giáo hội trong xã hội

Sự hiện diện của Giáo hội Công giáo tại Indonesia là một sự hiện diện thiểu số, nhưng năng động và đang phát triển. Hiện nay, với hơn 8 triệu tín hữu, tương đương với chỉ hơn 3% dân số, Giáo hội đang tiếp tục phát triển. Sự hiện diện của người Công giáo trên đất nước cũng không đồng nhất: một mặt, có các giáo phận Ende, Ruteni, Atambua và Larantuka thì gần như hoàn toàn là Công giáo, mặt khác ở thái cực ngược lại, có ít nhất tám giáo phận trong đó cộng đồng Công giáo không quá 1% dân số.

Mặc dù chỉ là một số nhỏ, nhưng cộng đồng Công giáo Indonesia là một thực thể sống động và năng động, với ơn gọi phát triển ở nhiều khu vực khác nhau và các tín hữu nhận được sự chăm sóc mục vụ một cách đầy đủ. Họ cũng tham gia tích cực vào đời sống xã hội, kinh tế và chính trị của đất nước. Một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất của sức sống này đến từ lĩnh vực hoạt động mạnh nhất: đó là giáo dục. Các trường Công giáo ở Indonesia luôn có được một danh tiếng tuyệt vời và các sinh viên Hồi giáo cũng theo học tại các trường này.

Với những đóng góp và được ghi nhận về các hoạt động xã hội, y tế, văn hóa và giáo dục, tôn trọng các nhóm sắc tộc và văn hóa khác nhau, Giáo hội Indonesia cũng hiện diện tích cực trong các chủ đề tranh luận của đất nước. Từ việc liên tục kêu gọi chống lại án tử hình, đến việc phản đối việc hợp pháp hóa phá thai, hay việc liên tục tố cáo về tham nhũng hoành hành. Giáo hội Indonesia cũng dấn thân tích cực trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ tích cực các nguyên tắc Pancasila chống lại mọi chủ nghĩa cực đoan. Các giám mục không làm ngơ trong việc lên tiếng trước các vấn đề khác nhau của xã hội Indonesia. Đóng góp quan trọng này đã được nhấn mạnh trong hội nghị toàn thể của HĐGM Indonesia tháng 11 năm 2018, dành riêng về đề tài ơn gọi của Giáo hội trong đất nước.

Thách đố giữa tinh thần bao dung và chủ nghĩa cực đoan

Với dân số hơn 260 triệu người, trong số đó có gần 90% dân số theo Hồi giáo, Indonesia là quốc gia có số tín hữu Hồi giáo đông nhất thế giới. Dù đa số Hồi giáo, nhưng Indonesia không tuyên bố là một quốc gia Hồi giáo, nhưng được thành lập dựa trên Pancasila, năm nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp [đức tin vào một Thiên Chúa tối cao; công bằng và dân sự; đoàn kết; dân chủ lãnh đạo bằng sự khôn ngoan; công bằng xã hội] bảo đảm tự do của tất cả mọi người.

Trên thực tế, xã hội Indonesia là đa tôn giáo, đa sắc tộc và đa văn hóa, đến nỗi tiêu ngữ của quốc gia là “thống nhất trong đa dạng”, một đặc thù đã góp phần tạo nên bản chất lịch sử của đạo Hồi ở nước này, vốn luôn được sử dụng để cùng chung sống trong sự đa nguyên.

Cộng đồng Công giáo cũng được hưởng nhờ từ tinh thần bao dung này. Điều này được khẳng định bởi mối quan hệ tốt đẹp giữa Giáo hội và Nhà nước Indonesia, với quan hệ ngoại giao từ năm 1950 và được đánh dấu bởi hai chuyến viếng thăm của ĐGH Phaolô VI năm 1970 và của Đức Gioan Phaolô II năm 1989. Hơn nữa, trong thời gian hiện tại, sự hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục và văn hóa được đẩy mạnh. Trong số những điều được nhắc đến, sự hòa hợp này là điều được nhấn mạnh trong chuyến viếng thăm của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh trong chuyến viếng thăm chính thức Indonesia năm 2015.

Tuy nhiên, khó khăn và xung đột cũng không thiếu. Các luật lệ khác nhau của hệ thống pháp luật Indonesia trừng phạt các nhóm thiểu số và vì lý do này, họ cũng đã bị Giáo hội chỉ trích. Đây là trường hợp của luật lạm dụng về tội báng bổ, luật về xây dựng nơi thờ phượng [được quy định bởi hai nghị định năm 1969 và từ năm 2006], thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc tự ý đóng cửa các cơ sở tôn giáo, và luật hôn nhân, chỉ công nhận giá trị hợp pháp cho các cặp đôi theo nghi lễ và luật lệ của một tôn giáo duy nhất, do đó cấm kết hôn hỗn hợp. Thêm vào các quy tắc này là các biện pháp khác nhau được chính quyền địa phương áp dụng: từ năm 1999, hơn 150 quy định hạn chế mới về tôn giáo đã được đưa ra.

Mối đe dọa chính đối với hòa bình và hòa hợp tôn giáo đến từ sự truyền bá chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan [cũng được cổ vũ bởi các nhà thuyết giáo nước ngoài], đã làm cho các cuộc xung đột giáo phái dâng lên ở các khu vực khác nhau của quần đảo, lộ ra mạng lưới khủng bố địa phương liên kết với al-Qaeda và gần đây là nhà nước Hồi giáo IS. Các mạng lưới khủng bố này đã tuyên bố chịu trách nhiệm về nhiều cuộc tấn công đổ máu kể từ đầu những năm 2000.

Nhiều báo cáo khác nhau, bao gồm cả những báo cáo của Trung tâm nghiên cứu về Hồi giáo - “Viện Wahid”, cho thấy sự leo thang bạo lực và phân biệt đối xử đối với các nhóm tôn giáo thiểu số, kể cả đối với Kitô hữu.

Hầu hết các vi phạm xảy ra ở tỉnh Tây Java, ở Sumatra, tại khu vực đô thị của Jakarta và ở tỉnh tự trị Aceh. Tỉnh tự trị Aceh là nơi duy nhất luật Hồi giáo Sharia có hiệu lực và được áp dụng ngày càng khắc khe và độc đoán, nhiều nơi thờ phượng đã bị đóng cửa, bởi vì chúng “bất hợp pháp”, do áp lực của chủ nghĩa cực đoan địa phương.

Các hệ luận của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo đã được đánh dấu tại đảo Maluku trong cuộc xung đột đẫm máu giữa năm 1999 và 2001 liên quan đến các cộng đồng Kitô giáo [Tin lành] và Hồi giáo do sự hiện diện của phong trào cực đoan Laskhar Jihad. Các nhóm Hồi giáo, trong số những người khác, đóng vai trò chính trong chiến dịch bạo lực chống lại thống đốc Jakarta, ông Basuki Tjahaja Purnama, là một Kitô hữu gốc Hoa, bị buộc tội báng bổ và do đó bị kết án vào năm 2017.

Trong số các nhóm cực đoan năng nổ nhất ở nước này, phải kể đến “Diễn đàn Hồi giáo Umat” và “Mặt trận Hồi giáo Pembela” hay còn gọi là “Mặt trận của những người bảo vệ Hồi giáo”. Trước chủ nghĩa cực đoan lan rộng tại nước này, cũng có một số đáng kể những người Hồi giáo, các nhà lãnh đạo và trí thức ôn hòa cởi mở để đối thoại. Đây là một dấn thân tích cực được Giáo hội Công giáo chia sẻ như là một trong những ưu tiên của mình trong việc thúc đẩy đối thoại liên tôn và các nguyên tắc hòa hợp của Pancasila.

Xin hỗ trợ sứ mạng của chúng tôi: mang tiếng nói của Đức Thánh Cha đến mọi nhà
25 tháng sáu 2019, 17:04

Indonesia, quốc gia Hồi giáo lớn nhất thế giới, chia buồn về vụ khủng bố tại Pháp

Đăng ngày: 30/10/2020 - 14:00

Khác với nhiều nước khác, tổ chức Hồi giáo lớn nhất Indonesia có lập trường ôn hòa về tranh biếm họa liên quan đến đạo Hồi. Ảnh minh họa: biểu tình của người Hồi giáo chống ranh biếm họa ở Pakistan, năm 2012. REUTERS/Mian Khursheed
Thanh Hà

Trái với lời lẽ đầy hận thù của cựu thủ tướng Malaysia, đại sứ Indonesia tại Paris ngay hôm 29/10/2020 đãgửi lời chia buồn đến các nạn nhân loạt khủng bố tại Pháp. Còn tại thủ đô Jakarta, tổ chức Hồi giáo lớn nhất trên toàn quốc kêu gọi giảm thiểu căng thẳng. Thủ đô Indonesia từng là mục tiêu tấn công của khủng bố Hồi giáo cực đoan trong những năm gần đây.

Quảng cáo
Đọc tiếp

Thông tín viên đài RFI trong khu vực, Gabrielle Maréchaux cho biết:

«Nahdlatul Ulama là một cái tên xa lạ đối với công luận ở bên ngoài lãnh thổ Indonesia. Tuy nhiên đây là một tổ chức Hồi giáo với khoảng gần 100 triệu thành viên. Nổi tiếng là một tổ chức với những giáo huấn về cùng chung sống và suy ngẫm, điều đó đã được chứng minh trong những ngày qua. Tuy lãnh đạo của tổ chức Hồi giáo này có phát biểu rằng những bức tranh biếm họa nhạo báng Mohamed có thể mang tính xúc phạm đối với giáo lý Hồi giáo, nhưng điểm chính trong thông điệp của ông là kêu gọi các tín đồ «tránh để bị lôi cuốn vào những xúc cảm» và nên tránh theo gót «những người sử dụng đạo Hồi và tranh biếm họa nhà Tiên Tri như một vũ khí chính trị».

Vị lãnh đạo tôn giáo này thừa nhận là tổng thống Pháp Emmanuel Macron không hẳn hoàn toàn sai khi khẳng định rằng thế giới Hồi giáo đang lâm vào khủng hoảng, nhưng đồng thời cả thế giới đang bị chia rẽ vì những lý tưởng khác nhau.

Vị giáo chức này kết luận để đấu tranh chống tình trạng đó, ông mong muốn có «cương lĩnh đối thoại trên cơ sở trung thực để xây dựng một đồng thuận về những giá trị văn minh chung».

Ngoại trưởng Mỹ, Mike Pompeo trong chuyến công du Jakarta đã hoan nghênh đề xuất này, nhưng sau đó, ông kêu gọi Indonesia bày tỏ lập trường về số phận của những người Hồi giáo đang bị truy bức tại Trung Quốc và Miến Điện».

  • Hồi giáo
  • Khủng hoảng
  • Cực đoan
  • Quốc tế
  • Indonesia
  • Pháp

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề