Vì sao chúng ta cần nắm

Theo Liên hợp quốc, bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và đàn ông được hưởng những điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ quyền con người và có cơ hội đóng góp, thụ hưởng những thành quả phát triển của xã hội nói chung.

Tại Mỹ, các tổ chức xã hội phải mất hơn 70 năm [từ năm 1848 cho đến năm 1920] để đấu tranh và tạo cho phụ nữ một vài quyền cơ bản như: Quyền được bảo hộ; quyền bình đẳng cho phụ nữ da màu nói riêng và phụ nữ nói chung; cải thiện điều kiện sống, mức lương làm việc và quyền bầu cử tại Mỹ. Một số nhà hoạt động nhân quyền còn hy sinh tính mạng của mình để đấu tranh cho các quyền này. Thế nhưng, ở nhiều nước khác, những bất bình đẳng giới vẫn còn tiếp diễn.

Theo thống kê, có 77% đàn ông trong giữ vai trò là lực lượng lao động chính. Trong khi đó phụ nữ chỉ chiếm khoảng 50% hoặc chưa tới số đó [ở một số nước, số lượng phụ nữ có mặt trong lực lượng lao động chính còn ít hơn rất nhiều]. Thu nhập mà phụ nữ nhận được trung bình chỉ bằng khoảng 77% nam giới; tức là vẫn thấp hơn 23%. Với mỗi 1 đô-la một người đàn ông kiếm ra, phụ nữ tại Mỹ La-tin chỉ kiếm được 56 cents và phụ nữ Mỹ-Phi kiếm được khoảng 64 cents [tức là chỉ hơn một nửa]. 62 triệu bé gái bị từ chối quyền học hành trên toàn thế giới [số liệu của Liên hợp quốc]. Hàng năm, có tới 15 triệu trẻ em gái dưới 18 tuổi bị ép tảo hôn và hôn nhân sắp đặt sẵn của gia đình. Cứ 5 nạn nhân của nạn buôn người thì có tới 4 là nữ [Số liệu của quỹ Malala]. Có tới 125 triệu phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của tục cắt âm vật [Female genital mutilation] trên toàn thế giới. Có ít nhất 1000 vụ giết phụ nữ và bé gái vì danh dự gia đình xảy ra hằng năm ở Ấn Độ và Pakistan. Cứ 5 sinh viên nữ thì có 1 người là nạn nhân của tấn công tình dục tại trường học hay giảng đường. Tại Mỹ, cứ mỗi 15 giây trôi qua sẽ có một người phụ nữ bị chồng hoặc bạn trai đánh đập [domestic violence]

Còn tại việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái vẫn thiệt thòi hơn nam giới và trẻ em trai trong một số lĩnh vực. Tỷ lệ phụ nữ làm công ăn lương chỉ bằng khoảng hơn một nửa so với nam giới. Mức lương của phụ nữ thấp hơn nam giới. Ví dụ: mức lương bình quân thực tế theo giờ công lao động của phụ nữ chỉ bằng khoảng 80% so với nam giới. Thời gian phụ nữ dành cho công việc nhà không được thù lao gấp đôi nam giới. Số giờ công lao động hưởng lương của nam giới và phụ nữ là tương đương nhau. Tuy nhiên thời gian phụ nữ dành cho việc nhà lại gấp đôi nam giới, đây là những công việc không được thù lao. Do đó, họ không có thời gian để tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí, văn hoá, xã hội và tiếp tục nâng cao trình độ học vấn. Chưa kể, điều kiện dinh dưỡng của phụ nữ kém hơn so với nam giới. Phụ nữ trưởng thành, đặc biệt là phụ nữ ở các vùng nông thôn, các gia đình nghèo và các dân tộc thiểu số, vẫn có nhiều khả năng bị suy yếu sức khỏe hơn nam giới. Ngoài ra, họ vẫn còn gặp nhiều trở ngại hơn đàn ông trong việc tiếp cận với các nguồn tín dụng, đặc biệt vì phụ nữ thường không có tài sản thế chấp như đất đai. Mặc dù luật đất đai ở Việt Nam không phân biệt đối xử với phụ nữ, song những tập quán phổ biến làm cho họ bị yếu thế hơn, bởi quyền sử dụng đất thường chỉ đứng tên người chồng. Ngoài những những thông tin trong báo cáo trên, rõ ràng trên thực tế người phụ nữ vẫn gặp nhiều trở ngại hơn so với nam giới trong việc tham gia vào các công việc cũng như các hoạt động xã hội. Đặc biệt tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực giới vẫn đang tồn tại ở nhiều nơi [theo báo cáo của UNFP].

Bình đẳng giới không chỉ là để giải phóng phụ nữ, mà còn là giải phóng đàn ông. Khi quá đề cao nam giới và hạ thấp nữ giới thì không chỉ có nữ giới bị ảnh hưởng mà nam giới cũng bị ảnh hưởng theo. Chẳng hạn, quan niệm nam giới phải mạnh mẽ, không được khóc, không được thể hiện cảm xúc là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tỉ lệ tự tử ở nam cao gấp 3 lần nữ giới, tuổi thọ cũng ngắn hơn. Rất nhiều nam giới bị rối loạn tâm lý nhưng không dám đi khám hay chữa hoặc tìm đến sự giúp đỡ vì họ sợ bị dị nghị là “yếu ớt” hay “thiếu nam tính”. Chưa kể, nếu họ có theo đuổi các ngành nghệ thuật thì sẽ bị miệt thị và nói là “yếu đuối”, “đàn bà”, “gay”…

Hiện tại, trên thế giới có rất nhiều phụ nữ là những nhà nghiên cứu khoa học hàng đầu, có nhiều người thậm chí đã được giải Nobel về Sinh học, Vật lý, Hóa học. Tại các nước phát triển ở Bắc Âu, hay Canada, Singapore… rất nhiều người đứng đầu các phòng nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học chính trị là nữ giới. Trong các ngành STEM [Science, Technology, Engineering and Mathematics], những nhà khoa học nữ có hiệu suất làm việc ngang bằng với các nhà khoa học nam. Một số nghiên cứu còn cho rằng, bình đẳng giới giúp thúc đẩy phát triển kinh tế, vì khi cho phụ nữ cơ hội như nam giới, họ sẽ có khả năng giúp đỡ và san sẻ công việc cho nhau nhiều hơn.

Do đó, đấu tranh cho quyền phụ nữ [women’s rights] và bình đẳng giới là cần thiết và ý nghĩa trong mọi thời điểm.

Con người sẽ tiến hóa như thế nào trong một triệu năm?

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Để hiểu sự tiến hóa tương lai của loài người, chúng ta cần nhìn về quá khứ.

Liệu con cháu của chúng ta sẽ là những người được cấy vào cơ thể những máy móc công nghệ cao, chân tay có thể mọc lại và đôi mắt như máy ảnh như đi ra từ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng?

Các định luật vật lý có chứng minh sự tồn tại của Chúa?

Tương lai buồn của những công trình xây trên băng tan

Quảng cáo

Những người Neanderthal cuối cùng trước ngày tuyệt chủng

Liệu con người có thể biến thành một loài lai giữa sinh học và nhân tạo? Hoặc liệu chúng ta có thể trở nên nhỏ bé hơn hay cao lớn hơn, gầy hơn hay mập hơn, hoặc thậm chí với các đặc điểm khuôn mặt và màu da khác nhau?

Ngược về quá khứ

Tất nhiên, chúng ta không biết, nhưng để nghiên cứu vấn đề này, chúng ta hãy quay trở lại một triệu năm trước để xem con người lúc đó trông như thế nào.

Thời ban đầu, người thông minh [Homo sapiens] chưa tồn tại.

Một triệu năm trước, có lẽ chỉ có một vài loài người khác nhau trên Trái Đất, bao gồm người Heidelberg [Homo heidelbergensis], vốn có điểm tương đồng với người đứng thẳng [Homo erectus] và người hiện đại, nhưng cấu trúc cơ thể sơ khai hơn người Neanderthal sau này.

Trong lịch sử cận đại hơn, trong 10.000 năm qua, đã có những thay đổi đáng kể để con người thích nghi theo.

Lối sống nông nghiệp và nguồn thức ăn dồi dào đã dẫn đến các chứng bệnh mà chúng ta đã dùng khoa học để giải quyết, chẳng hạn dùng insulin để trị bệnh tiểu đường.

Về hình dáng, con người trở nên mập mạp hơn và, ở một số nơi, cao lớn hơn.

Có lẽ, vào lúc đó, chúng ta có thể tiến hóa trở nên nhỏ hơn để cơ thể cần ít năng lượng hơn, Thomas Mailund, phó giáo sư công nghệ thông tin sinh học tại Đại học Aarhus, Đan Mạch, nhận định, và đặc điểm tiến hóa này sẽ ích lợi hơn trên một hành tinh dân cư đông đúc.

Sống bên cạnh rất nhiều người là tình trạng mới mà con người phải thích nghi.

Trở lại thời con người còn là sống kiểu săn bắn hái lượm, mỗi ngày lượt tương tác với nhau rất ít.

Mailund cho rằng chúng ta có thể đã tiến hóa theo những cách giúp chúng ta thích ứng với việc này. Chẳng hạn như ghi nhớ tên người khác có thể trở thành một khả năng quan trọng hơn nhiều.

Vận dụng công nghệ

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Liệu hậu duệ của chúng ta sẽ là những người được cấy máy móc công nghệ cao vào cơ thể?

Đây là chỗ công nghệ phát huy tác dụng. "Cấy ghép trong não sẽ cho phép chúng ta nhớ tên mọi người," Thomas nói.

Nhìn vào quá khứ và tương lai để sống tốt thời hiện tại

Cảnh đẹp chết chóc do bàn tay con người tạo nên

Thảm cảnh khi độc tài kiểm soát trí tuệ nhân tạo

Có thể tạo ra máy 'đọc' ý nghĩ người khác?

"Chúng ta biết những gene cần thiết để tạo nên bộ não giỏi nhớ tên mọi người. Chúng ta có thể thay đổi gene đó. Nghe có vẻ giống khoa học viễn tưởng hơn. Nhưng chúng ta có thể làm điều đó ngay bây giờ. Chúng ta có thể cấy ghép não nhưng chúng ta không biết cấu trúc nó như thế nào để nó có công dụng. Chúng ta đang tiến đến điểm đó nhưng nó còn rất thử nghiệm."

"Nó thực sự không còn là vấn đề sinh học nữa, mà là vấn đề công nghệ," ông nói.

Hiện tại, mọi người dùng cấy ghép để sửa chữa chỗ nào đó của cơ thể bị hư hại, chẳng hạn như máy tạo nhịp tim hoặc cấy ghép hông.

Có lẽ trong tương lai, cấy ghép đơn giản sẽ được dùng để nâng cấp con người. Cũng như cấy ghép não, ngoại hình chúng ta có thể có các bộ phận công nghệ dễ nhìn thấy hơn, chẳng hạn như mắt nhân tạo với camera trong đó để có thể đọc các tần số màu sắc và hình ảnh khác nhau.

Tất cả chúng ta đều đã nghe nói về những đứa trẻ được tạo ra theo những chuẩn thiết kế nhất định.

Các nhà khoa học đã có công nghệ để thay đổi gene của phôi, mặc dù điều này gây tranh cãi và không ai chắc chắn điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Nhưng Mailund cho rằng trong tương lai, việc thay đổi một số gene nào đó có thể sẽ không bị là phi đạo đức.

Điều này có thể dẫn đến lựa chọn các đặc điểm của em bé, vì vậy có lẽ con người sẽ có ngoại hình như cha mẹ mong muốn.

"Nó vẫn sẽ là lựa chọn, giờ đây là lựa chọn nhân tạo. Những gì chúng ta làm với việc lai tạo ra các giống chó, thì chúng ta sẽ làm với con người," Mailun nói.

Tất cả điều này khá giả thuyết, nhưng liệu xu hướng dân số có thể cho chúng ta bất kỳ ý niệm nào về việc chúng ta sẽ trông như thế nào trong tương lai hay không?

Thay đổi trong nhân khẩu học

"Dự đoán về một triệu năm trước là suy đoán thuần túy, nhưng dự đoán cho tương lai gần hoàn toàn khả dĩ, với việc sử dụng thông tin sinh học bằng cách kết hợp những gì chúng ta biết về biến đổi di truyền hiện nay với các mô hình về thay đổi nhân khẩu học trong thời gian tới," Tiến sĩ Jason A. Hodgson, giảng viên môn Những Thách thức Lớn trong Hệ Sinh thái và Môi trường, cho biết.

Giờ đây, do chúng ta đã có các mẫu di truyền của bộ gene hoàn chỉnh từ nhiều người trên khắp thế giới, các nhà di truyền học đang hiểu rõ hơn về biến thể gene và cách nó được cấu trúc trong một cộng đồng.

Chúng ta không thể dự đoán chính xác biến thể di truyền sẽ thay đổi như thế nào, nhưng các nhà khoa học thông tin sinh học đang tìm hiểu các xu hướng dân số để cho chúng ta hình dung.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Hodgson dự đoán cư dân ở khu vực thành thị và nông thôn sẽ ngày càng trở nên khác biệt.

"Tất cả các cuộc di cư đều diễn ra theo chiều từ nông thôn đến thành thị, do đó chúng ta sẽ thấy đa dạng di truyền tăng lên ở các thành phố và giảm ở nông thôn," ông nói. "Những gì bạn có thể thấy, đó là sự khác biệt theo khu vực con người sinh sống."

Nó sẽ khác biệt ở phạm vi toàn thế giới nhưng ở Anh, chẳng hạn, các khu vực nông thôn ít đa dạng hơn và đa phần tổ tiên ở đây đã ở Anh trong thời gian dài hơn so với các thành thị vốn có dân nhập cư cao hơn.

Sắc da sậm hơn

Các sắc dân sẽ có tỷ lệ sinh cao thấp khác nhau. Chẳng hạn như dân số ở châu Phi đang gia tăng nhanh chóng, cho nên gene di truyền của họ tăng lên với tần suất cao hơn so với mức chung trên toàn cầu.

Những nơi sắc dân có màu da sáng có tỷ lệ sinh thấp hơn. Do đó, Hodgson dự đoán, từ góc độ toàn cầu, màu da con người từ sẽ trở nên sậm hơn.

"Gần như chắc chắn là tần suất màu da sậm đang tăng trên quy mô toàn cầu so với màu da sáng," ông nói. "Tôi đoán rằng từ giờ cho đến vài thế hệ nữa, một người bình thường sẽ có nước da sậm hơn bây giờ."

Còn không gian thì sao? Nếu con người cuối cùng đưa người lên sống trên sao Hỏa, chúng ta sẽ tiến hóa để trở thành như thế nào?

Với ít trọng lực hơn, các cơ trên cơ thể chúng ta có thể sẽ thay đổi cấu trúc. Có lẽ chúng ta sẽ có cẳng tay và cẳng chân dài hơn.

Trong điều kiện khí hậu lạnh hơn giống như ở Kỷ Băng hà, liệu chúng ta có thể trở nên thậm chí còn mũm mĩm hơn, với lớp lông cách nhiệt trên người, giống như những người Neanderthal họ hàng của chúng ta hay không?

Chúng ta không biết, nhưng, chắc chắn là biến đổi di truyền của con người đang gia tăng.

Trên toàn thế giới, mỗi năm có xấp xỉ hai đột biến mới cho mỗi một trong số 3,5 tỷ cặp gene cơ sở trong bộ gene người, Hodgson nói.

Điều này thật tuyệt vời - và nó sẽ khiến chúng không thể nào vẫn sẽ trông y như vậy sau một triệu năm.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

Video liên quan

Chủ Đề