Tồn tại hạn chế trong thực hiện chính sách xã hội

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Thực hiện có hiệu quả quản lý nhà nước sẽ tạo lập điều kiện và cơ sở pháp lý để các chính sách xã hội vận hành; là động lực to lớn để phát huy tính năng động, sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết đánh giá vai trò và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội trong thời gian tới ở Việt Nam.

1. Vai trò của quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội

Hiểu theo nghĩa chung nhất, quản lý nhà nước là hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước. Đây là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với sự ra đời và phát triển của nhà nước. Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hoặc các cá nhân được trao quyền đại diện quyền lực nhà nước trong quá trình tác động đến đối tượng quản lý, bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhà nước và cá nhân được nhà nước ủy quyền thực hiện quyền quản lý nhà nước.

Quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội là sự tác động trực tiếp, liên tục, có tổ chức của nhà nước đối với quá trình xây dựng, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát và điều chỉnh chính sách xã hội, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và mục tiêu mà nhà nước đặt ra, phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử. Ở mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì quản lý xã hội sẽ có trình độ, phương thức, hình thức, mục đích quản lý khác nhau. Sự khác nhau về phương thức, trình độ quản lý xã hội do trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mục đích quản lý do giai cấp cầm quyền xác định.

Ở Việt Nam, chính sách xã hội có thể được ban hành và thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo bởi vì chức năng quản lý xã hội là là một trong những chức năng quan trọng và cơ bản nhất của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng này bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó nổi bật nhất là ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc. Trên cơ sở pháp luật, trong từng giai đoạn cụ thể, căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội, nhận thức của người dân, năng lực của bộ máy hành chính nhà nước mà các chủ thể quản lý nhà nước sẽ triển khai áp dụng vào thực tiễn. Do vậy, quan tâm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Làm tốt nội dung này đồng nghĩa với việc tạo điều kiện, cơ sở pháp lý để các chính sách xã hội vận hành; là động lực to lớn, phát huy tính năng động, sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tổ chức thực hiện chính sách xã hội là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin cho rằng, mỗi thời kỳ cách mạng đòi hỏi phải Nhà nước phải xác định rõ nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm. Khi Đảng Cộng sản chưa giành được quyền lực nhà nước thì nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục đa số nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng, đấu tranh giành chính quyền. Sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nước Nga bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, giáo dục quần chúng, Đảng và Nhà nước Xô viết phải tiến hành những nội dung và nhiệm vụ mới khó khăn hơn - đó là nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm là quản lý xã hội.

V.I.Lênin khẳng định: “Nhiệm vụ khắc phục và đè bẹp sự phản kháng của bọn bóc lột ở Nga về căn bản đã kết thúc”[1] thì “ngày nay nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm”[2], là một trong những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết. Người nhấn mạnh: “Đây là lần đầu tiên mà một đảng xã hội chủ nghĩa đã giành chính quyền và đè bẹp bọn bóc lột, có thể bắt tay vào việc giải quyết nhiệm vụ quản lý. Chúng ta phải tỏ ra là những người thực hiện được một cách xứng đáng nhiệm vụ rất khó khăn ấy của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt thì ngoài cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn”[3].

Ở Việt Nam giai đoạn trước đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan nên nhiều vấn đề xã hội và chính sách xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và thực hiện một cách đúng đắn. Mặc dù mục đích phát triển xã hội luôn được đặt ra là vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, nhưng cơ chế cũ với sự phân phối bình quân đã triệt tiêu động lực của sự phát triển. Theo đó, Nhà nước chi phối mọi hoạt động từ sản xuất kinh doanh đến lưu thông phân phối hàng hóa, làm cho người lao động ỷ lại, tự thỏa mãn và bị động trong mọi hoạt động của đời sống xã hội; các vấn đề xã hội như ăn, ở, đi lại, học tập, y tế được Nhà nước cung cấp vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế, vì vậy nhiều nơi chính sách xã hội thực hiện còn hình thức, kém hiệu quả.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI [tháng 12/1986] đến nay, quan điểm về chính sách xã hội có bước tiến quan trọng, đánh dấu bước chuyển biến lớn trong nhận thức về thực hiện chính sách xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã nhận định: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[4]. Cùng với quá trình đổi mới, qua các kỳ đại hội nhận thức về nhân tố con người, về chính sách xã hội đã thay đổi theo hướng tích cực và phát triển. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định nhiệm vụ: “Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn”[5].

Trong những năm qua, cơ sở pháp lý để Nhà nước thực hiện chính sách xã hội ngày càng hoàn thiện hơn. Những nội dung liên quan đến chính sách xã hội được thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013, trong đó Điều 34 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; Điều 58 quy định: “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình”.

Từ năm 1997 đến năm 2013, Đảng và Nhà nước đã ban hành 146 văn bản quy định về chính sách xã hội, trong đó có 02 văn bản chính sách về an sinh xã hội, đó là Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 01/11/2012 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 15/NQ/TW ngày 01/6/2012. 144 văn bản chính sách còn lại được chia thành năm nhóm chính sách cụ thể: chính sách tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động với 33 văn bản ban hành từ năm 2001 đến năm 2013; chính sách hỗ trợ giảm nghèo với 14 văn bản ban hành từ năm 2005 đến năm 2013; chính sách bảo hiểm xã hội với 05 văn bản ban hành từ năm 2006 đến năm 2012; chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản, gồm 16 văn bản về chính sách trợ giúp xã hội ban hành từ năm 2000 đến năm 2013, và 02 văn bản chính sách quy định về hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường ban hành từ năm 2010 đến năm 2011; chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội với 74 văn bản ban hành từ năm 1997 đến năm 2016].

Việc tổ chức thực hiện chính sách xã hội trong công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điều này thể hiện ở hệ thống chính sách ngày càng phát triển, hoàn thiện, trở thành hệ thống chính sách hỗ trợ lẫn nhau, đáp ứng những vấn đề thiết yếu của Nhân dân, vì Nhân dân, vì con người, đồng thời thúc đẩy xã hội đi tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Những vấn đề lao động, việc làm, chất lượng dân số, chăm sóc sức khỏe, về trình độ dân trí, xóa đói, giảm nghèo, các chính sách về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi  xã hội và chính sách bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được quan tâm. Do đó, niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và nâng cao.

Các chính sách xã hội đã góp phần tích cực trong việc nâng cao đời sống người dân, từng bước đáp ứng nguyện vọng của các giai cấp, các tầng lớp và cộng đồng dân cư trong xã hội; bảo đảm “tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội”. Điển hình là trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, Việt Nam đã chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình, không còn tình trạng hộ thiếu đói kinh niên, tình trạng nghèo đã chuyển từ diện rộng ở các vùng, miền sang cục bộ ở một số vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn và trong một số nhóm dân cư. Tỉ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 còn 6,8%, dự kiến tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 1% đến 1.5%/năm đến năm 2020. Việt Nam đã sớm hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói. Qua thực tiễn công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 đang diễn ra, công tác phòng, chống biến đổi khí hậu, lũ lụt, thiên tai... đã tiếp tục khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; trình độ tổ chức, năng lực, hiệu quả quản lý xã hội của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội ở nước ta còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”[7].

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách xã hội, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong thực hiện chính sách xã hội ở nước ta.

Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc của quản lý nhà nước về xây dựng và thực hiện chính sách xã hội. Trong xác định mục tiêu, yêu cầu, thiết lập hệ thống tổ chức, chuẩn bị các điều kiện, nguồn lực, lựa chọn các phương thức, công cụ, Nhà nước phải quán triệt, vận dụng, phát triển trên nền tảng quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội, quản lý, phát triển xã hội; giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước, phát huy vai trò và năng lực làm chủ xã hội của Nhân dân trong quá trình quản lý xã hội; kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, chế độ xã hội chủ nghĩa, vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của Nhân dân.

Hai là, phối hợp đồng bộ chính sách xã hội với các chính sách kinh tế - xã hội có liên quan.

Thực hiện chính sách xã hội không thể tách rời với chính sách quản lý – những lát cắt khác nhau của chỉnh thể chính sách kinh tế - xã hội, vì vậy khi hoạch định và thực hiện chính sách cần vận vận dụng quan điểm hệ thống, đồng bộ để vừa góp phần đảm bảo thực hiện chính sách mới không bị chồng chéo, mâu thuẫn; vừa huy động được các nguồn lực, có tính khả thi cao, bao trùm và tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng và các vùng, miền đặc thù.

Quá trình quản lý nhà nước về chính sách xã hội phải giữ vững, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, làm cho người dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải tạo cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo cơ hội để mọi người được học tập, có việc làm và được hưởng tiền lương, thu nhập hợp lý, thỏa đáng; bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn và chế độ nghỉ ngơi để đủ điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do tích tụ ruộng đất, thu hồi đất để phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng, khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm.

Ba là, phát huy các nguồn lực của Nhà nước, cộng đồng và người dân trong thực hiện chính sách xã hội.

Phát triển và thực hiện hệ thống chính sách xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Do vậy, trong điều kiện nguồn lực cho thực hiện chính sách còn hạn hẹp, mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước còn thấp, phân tán, cùng với phát huy vai trò chủ đạo của Nhà nước thì cần phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ gia đình, người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong thực hiện chính sách xã hội. Nhà nước giữ vai trò hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, tạo ra cơ chế đảm bảo việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, kỷ cương, nghiêm minh; chỉ đạo, điều hành quản lý được tập trung thống nhất; trách nhiệm của mỗi chủ thể, đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội được đề cao, phân định rõ ràng.

Đồng thời phải phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các lực lượng, huy động được các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước. Khắc phục tình trạng nhận thức chưa đúng và chưa đầy đủ của một bộ phận người dân khi cho rằng thực hiện chính sách xã hội là trách nhiệm riêng của Nhà nước, dẫn đến tư tưởng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước.

Bốn là, cần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia tiến bộ trên thế giới để xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chính sách xã hội.

Quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ đã và đang tác động sâu rộng đến quá trình quản lý xã hội của nước ta cũng như của các quốc gia khác. Khoa học, công nghệ, phương tiện, phương thức quản lý ngày càng tiên tiến, hiện đại, trình độ quản lý của chủ thể ngày càng tiến bộ, quá trình quản lý ngày càng được rút ngắn, chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội ngày càng cao... Đây là những yếu tố thuận lợi cho Việt Nam trong việc nâng cao khoa học và thực tiễn quản lý xã hội. Cùng với đó, các vấn đề xã hội, quản lý xã hội cũng ngày càng phức tạp và nhiều thách thức hơn.

Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chính sách xã hội, đảm bảo sự hỗ trợ, liên kết, phối hợp với nhau. Trong đó, cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách về an sinh xã hội, vấn đề xóa đói, giảm nghèo, giáo dục - đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe người có công; nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người khuyết tật, Luật Người cao tuổi...; xây dựng và ban hành các luật mới liên quan đến việc làm, thu nhập, tiền lương, trợ giúp xã hội.v.v. nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quy định, chính sách xã hội.

Năm là, xây dựng, bồi dưỡng cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, năng lực để hoạch định và triển khai có hiệu quả chính sách xã hội.

Chủ thể quản lý xã hội là những tổ chức, cá nhân xác định ở nhiều cấp, ngành, lĩnh vực, vùng miền, địa phương, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Công việc quản lý phức tạp, có quan hệ đan xen; mặt khác, việc hoạch định và thực hiện chính sách xã hội không thể áp đặt chủ quan, thiếu căn cứ khoa học.

Do đó, cần xây dựng  các cơ quan, đơn vị và đội ngũ công chức làm công tác quản lý nhà nước về chính sách xã hội có đủ phẩm chất, năng lực, bởi vì đây là lực lượng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và kết quả thực hiện chính sách xã hội. Đồng thời, các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân cần nâng cao năng lực bổ sung, hoàn thiện, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chính sách xã hội; kết hợp công tác tuyên truyền, phổ biến, thực hiện và kiểm tra chính sách, đảm bảo cho chính sách xã hội được triển khai có hiệu quả trong thực tế cuộc sống./.  

----------------------------

Ghi chú:

[1], [2] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb CTQG, H.2005, tr.160, tr.209.

[3] V.I.Lênin [1918], “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”, V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1976.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb CTQG, H.2007, tr.420.

[5], [7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.78, tr.133, tr.134.

[6] UNDP, Tăng trưởng vì mọi người: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm, Nxb Khoa học xã hội, H.2016, tr.120-124.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1986.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb CTQG, H.2007.

4. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, tập 39, Nxb CTQG, H.2005.

5. Học viện Hành chính, Giáo trình Quản lý nhà nước về xã hội, Nxb Chính trị - hành chính, H.2012.

TS Đoàn Nam Chung, Trường Đại học Điện lực

tcnn.vn

Video liên quan

Chủ Đề