Tại sao sau đại thắng mùa Xuân năm 1975 ta cần phải hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước

Vì sao sau thắng lợi mùa xuân năm 1975 ta phải thống nhất đất nước về mặt nhà nước?

Vì sao sau thắng lợi mùa xuân năm 1975 ta phải thống nhất đất nước về mặt nhà nước?

A. Vì đất nước ta đã được thống nhất về lãnh thổ nhưng tồn tại hai chính quyền riêng rẽ ở hai miền Nam, Bắc.

B. Vì miền Nam hoàn toàn giải phóng nhưng di hại của xã hội cũ vẫn còn tồn tại, miền Bắcgánh chịu hậu quả lâu dài.

C. Vì nguyện vọng thống nhất non sông của nhân dân Việt Nam.

D. Vì thực tế lịch sử dân tộc ta “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay

[ĐCSVN] - Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đưa cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ của dân tộc Việt Nam ta đến thắng lợi huy hoàng, trọn vẹn: non sông thu về một mối, đất nước sạch bóng quân xâm lược.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một dấu son chói lọi, một võ công hiển hách nhất, đồng thời đây cũng là một trong những sự kiện quan trọng, có tầm vóc và ý nghĩa to lớn trong lịch sử thế giới thế kỷ 20.

Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 cũng đã để lại cho chúng ta nhiều bài học lịch sử vô cùng quý giá đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới hiện nay.

- Thứ nhất là bài học chớp thời cơ chiến lược. Sau chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” [12/1972], Hiệp định Paris được ký kết [1/1973], dân tộc ta đã hoàn thành thắng lợi một bước căn bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “đánh cho Mỹ cút”. Nhưng để hoàn thành sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm và thống nhất đất nước thì dứt khoát phải “đánh cho ngụy nhào”.

Vấn đề là chúng ta có thể và cần phải thực hiện nhiệm vụ đó như thế nào và vào bao giờ?


Khoảnh khắc lịch sử xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975, đánh dấu thắng lợi trọn vẹn của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đỉnh cao của Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. [Ảnh: Trần Mai Hưởng/TTXVN]

Sau những thăm dò chiến lược, cơ bản chúng ta có thể khẳng định rằng: mặc dù không muốn bỏ Việt Nam và địa bàn chiến lược Đông Nam Á, song, khả năng Mỹ quay trở lại can thiệp trực tiếp với quy mô lớn vào Việt Nam là không hiện thực trong tương lai gần. Nhưng, nếu kéo dài thêm thì tình hình sẽ phức tạp, khó phán đoán, nhất là khi nước Mỹ có tổng thống mới vào năm 1977.

Về phe XHCN, sau khi có những tiếp xúc ngoại giao cấp cao nhất và những thỏa thuận đã đạt được với Mỹ, cả Liên Xô và Trung Quốc đều có những điều chỉnh chiến lược bất lợi đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của ta.[1]Từ khoảng giữa năm 1972, viện trợ của hai nước này cho Việt Nam đều bị cắt giảm mạnh. Nếu tổng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam năm 1971 đạt khoảng 332 triệu rúp thì năm 1973 còn 248 triệu, năm 1974 còn 98 triệu và năm 1975 chỉ còn 76 triệu [chỉ bằng gần 23% mức của năm 1971]. Tương tự, viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam đạt 141 triệu nhân dân tệ vào năm 1973 thì năm 1974 chỉ còn 45 triệu và năm 1975 là 19 triệu [chỉ bằng 13,4% mức của năm 1973].[2]

Như thế là trên bình diện quốc tế, thời cơ chiến lược để quân và dân ta đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn không thực sự to lớn, thuận lợi, và thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng thời gian khá ngắn, từ 1 đến 2 năm. Nếu không chớp được thời cơ này thì có thể chúng ta không bao giờ còn có thể kết thúc cuộc chiến tranh với thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn.

Tuy nhiên, ở trong nước, tương quan lực lượng, xét về mọi phương diện, đang có lợi cho cách mạng. Thắng lợi của việc “đánh cho Mỹ cút” đã mang lại một khí thế vô cùng mạnh mẽ, củng cố thêm ý chí và quyết tâm toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Lực lượng cách mạng được củng cố và tăng cường ở cả miền Bắc và miền Nam, sẵn sàng, quả quyết bước vào trận đánh mới mang tầm vóc một trận quyết chiến chiến lược. Trong khi đó, quân đội và chính quyền Sài Gòn hoang mang cực độ, tuy cố gào thét “tràn ngập lãnh thổ” để tự lên dây cót tinh thần, song, chúng cũng tự biết ngày tàn của chế độ không còn xa.

Chính trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã sáng suốt, dũng cảm chớp thời cơ chiến lược, quyết tâm đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Quá trình chớp thời cơ này bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 21 [tháng 7/1973], trải qua quá trình vừa tấn công địch, vừa thăm dò tình hình thế giới để đi tới kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9/1974, quyết tâm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, và đặc biệt là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng cuối năm 1974, đầu năm 1975, khi tình hình đã rõ hơn, với nhận định vô cùng sáng suốt: Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Trên cơ sở đó đã đưa ra quyết định lịch sử: “…gấp rút chuẩn bị mọi mặt để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh cứu nước trong năm 1975 hoặc năm 1976”.[3]Đây chính là cội nguồn, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Bài học nhận định, nắm bắt thời cơ chiến lược tiếp tục được vận dụng sáng tạo, góp phần quyết định giúp cho Đảng ta lãnh đạo đất nước vượt qua những thử thách sống còn, giành được những thắng lợi có tính chất lịch sử. Quyết định phát động công cuộc Đổi mới vào năm 1986 [Đại hội Đảng lần thứ VI], và quyết định đưa ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 [Đại hội Đảng lần thứ VII] là những quyết định lịch sử đã đưa đất nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng có tính chất dây chuyền của phe XHCN thế giới, tiến từng bước vững chắc trên con đường Đổi mới. Đến năm 2011, tại Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh chính trị lại được bổ sung, sửa đổi, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại và của cách mạng Việt Nam, nhất là của công cuộc đổi mới và hội nhập ngày càng toàn diện và sâu rộng vào toàn cầu hóa.

Giờ đây, trước thềm Đại hội lần thứ XIII của Đảng, đất nước ta lại đang đứng trước thời cơ chiến lược mới với những thách thức mới, nghiêm trọng và phức tạp. Quá trình toàn cầu hóa ngày càng tăng tốc đã đưa lại cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước những nguồn lực và vận hội mới. Chưa bao giờ hàng hóa thuộc nhiều chủng loại của Việt Nam lại vươn xa đến thế trên khắp hoàn cầu; Việt Nam cũng tham gia ngày càng tích cực và có trách nhiệm trong các công việc mang tầm vóc thế giới và khu vực, uy tín quốc gia ngày càng được nâng cao. Song, toàn cầu hóa cũng đặt ra nhiều thách thức hiểm nghèo chưa từng có. Biến đổi khí hậu toàn cầu có thể đặt một số vùng của nước ta trước nguy cơ thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn khó bề khắc phục; làn sóng xâm thực văn hóa có thể làm xói mòn hệ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; dịch bệnh, như đại dịch bệnh COVID-19 chẳng hạn, gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn v.v…

Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp mới cũng mở ra cơ hội vô cùng to lớn cho các nước “đi sau” như Việt Nam có thể thực hiện thành công chiến lược phát triển “rút ngắn” để thoát khỏi tình trạng tụt hậu, gia nhập vào hàng ngũ những quốc gia tiên tiến nhất. Song, kèm theo đó, nguy cơ mà cuộc cách mạng này đưa lại cũng rất lớn: đó có thể là sự lệ thuộc lâu dài và vĩnh viễn về công nghệ và sự kiểm soát vô giới hạn của những tập đoàn công nghệ toàn cầu đối với mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc.[4]

Trong bối cảnh đó, bài học về sự phân tích khoa học, về tầm nhìn và bản lĩnh chớp thời cơ chiến lược của Đại thắng mùa Xuân 1975 càng có giá trị thiết thực. Thực tế là, giống như 45 năm trước, đất nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam không có lựa chọn nào khác, ngoài việc cả quyết xông vào dòng thác lũ của thời đại, chấp nhận thách thức lịch sử, do đó, “biến nguy thành cơ”, phát huy cao độ ý chí và khát vọng của dân tộc để chiếm lấy những lợi thế, vượt qua trở ngại để tiến bước.

- Bài học quý báu thứ haimà Đại thắng mùa Xuân năm 1975 để lại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày nay là bài học vềsự sáng tạo và mưu lược trong chỉ đạo chiến lược.Bản thân sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã là quá trình sáng tạo không ngừng, hơn nữa, trong chỉ đạo chiến tranh, nhất là những chiến dịch quyết chiến chiến lược thì sự sáng tạo và mưu lược là đòi hỏi rất cao và mang tính bắt buộc. Người xưa từng nói, để giành thắng lợi trong chiến tranh thì:“Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần đánh, người giỏi đánh thì không thua...”[5]Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là minh chứng tiêu biểu nhất của tài nghệ cầm quân xuất chúng của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Cả nước cùng ra trận, tập trung toàn bộ các nguồn lực để tạo thành xung lực tổng hợp như Phù Đổng vươn mình. Lần đầu tiên sự chỉ huy tác chiến hợp đồng các binh chủng, các quân đoàn, các mặt trận được thống nhất và nhịp nhàng và vô cùng hiệu quả. Sau các đòn tấn công quân sự và ngoại giao thăm dò là đòn tấn công điểm trúng yếu huyệt của đối phương ở Buôn Ma Thuột, đẩy quân địch ra khỏi Tây Nguyên, mở ra thế trận mới. Tiếp đó là chiến dịch Huế - Đà Nẵng tiến tới giải phóng hoàn toàn dải đất miền Trung bằng những đòn tấn công quyết liệt, đánh bại các nỗ lực phòng ngự và làm tan rã tinh thần và ý chí của đối phương. Thế trận thuận lợi đã mở ra cho chiến dịch cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh với phương châm:“Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến! Toàn thắng!”[6]

Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay cũng đặt ra yêu cầu rất cao về tính sáng tạo và mưu lược đối với sự lãnh đạo và chỉ đạo chiến lược của Đảng và nhà nước ta. Đương nhiên, sự sáng tạo và mưu lược đó không có sẵn trong sách vở nào, cũng không chỉ dựa được vào sự già dặn của tích lũy kinh nghiệm và thông minh, tài trí cá nhân, mà trước hết phải là thành tựu của sự lãnh đạo tập thể, trước hết là tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương Đảng, của Quân ủy Trung ương, các cơ quan nhà nước.Song, cũng còn cần phải phát huy trí tuệ, tham mưu của đội ngũ chuyên gia, các bộ chỉ huy các cấp và của toàn thể nhân dân. Sự sáng tạo và mưu lược trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và văn minh trí tuệ lại càng phải dựa vào những kết quả nghiên cứu, phân tích thực sự khách quan, khoa học của các cơ quan và đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp, cũng như những sáng kiến phong phú của nhân dân.

Thành tựu của công cuộc đổi mới, nhất là của công cuộc phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng an ninh, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian vừa qua đã cho thấy rõ bản lĩnh, sự sáng tạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Hiện nay và trong tương lai, sự cạnh tranh phát triển khốc liệt nhất giữa các quốc gia, các nền kinh tế, các tập đoàn và các công ty chính là cạnh tranh về tốc độ đổi mới tri thức, tốc độ rút ngắn vòng đời công nghệ, và tựu trung lại là mức độ tích hợp văn hóa và hàm lượng trí tuệ trong các sản phẩm kinh tế và văn hóa. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã xác định rất chính xác: khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu; phát triển văn hóa, nhất là công nghiệp văn hóa phải tạo bước đột phá để văn hóa trở thành một nguồn lực phát triển trực tiếp, gắn phát triển văn hóa với phát triển con người để văn hóa thực sự đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, nhận thức trong chỉ đạo chiến lược còn có lúc, có nơi chưa thực rõ, nhất là chưa tìm ra được khâu đột phá then chốt nhất để tạo ra được chuyển biến có tính chất mở đường, tạo ra chuyển động có tính dây chuyền, làm thay đổi toàn bộ công cuộc phát triển.

- Bài học vô giá thứ ba mà Cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 để lại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân ta hiện nay là bài học về phát huy cao độ hào khí dân tộc trên nguyên tắc đặt đại nghĩa dân tộc và lợi ích quốc gia lên trên hết.

Lịch sử đã cho thấy, trước những khúc quanh, trong những thời khắc quyết định, nếu hào khí dân tộc được phát huy, đại nghĩa dân tộc được giương cao thì nhất định dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua mọi thử thách và lập được những kỳ công hiển hách. Những trang sử vàng của dân tộc đã từng ghi đậm nét những thời khắc như vậy: đó là lúc bài thơ“Nam quốc sơn hà”vang lên khi cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075 đến hồi quyết liệt;[7]Đó là khi các bô lão cùng thét vang một từ“đánh”tại Hội nghị Diên Hồng năm 1284“muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng”để đáp lại lời vua Trần Nhân Tông hỏi về việc ứng phó với giặc Nguyên Mông;[8]Đó cũng là lúc toàn dân ta đồng loạt vùng lên phá tan gông xiềng nô lệ,“đem sức ta mà giải phóng cho ta”theo lời hiệu triệu của Đảng và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mùa Thu năm 1945.

Mùa Xuân năm 1975, cả nước ta đã nhất tề vào trận với khí thế hào hùng và với quyết tâm như ý chí dân tộc nghìn năm hội tụ. Ý chí sắt đá và khí thế ngút trời toát ra trong lời đáp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng – Chủ tịch Hội đồng chi viện miền Nam,[9]khi được hỏi về việc chuẩn bị đạn dược: “đủ bắn cho nó sợ đến ba đời!”; trong lời dặn tha thiết mà hào sảng của Bí Thư thứ nhất Lê Duẩn khi tiễn đồng chí Lê Đức Thọ và Bộ Tư lệnh tiền phương: “phải thắng mới được về!”; và trong bản quân lệnh lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Xốc tới mặt trận, giải phóng Miền Nam. Quyết chiến! Toàn thắng!”

Trong bối cảnh mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, hào khí dân tộc càng đang rất cần được khơi dậy và phát huy để toàn dân tộc chung sức, đồng lòng, cộng trí, cộng lực để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng tụt hậu, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Vấn đề là phải biết cách để khơi dậy hào khí dân tộc nghìn năm.

Nhớ lại khi công cuộc Đổi mới vừa bắt đầu, đời sống nhân dân cả nước vô cùng khó khăn, niềm tin “bị xói mòn nghiêm trọng”. Giữa lúc đó, khẩu hiệu “lấy dân làm gốc” đã nhanh chóng đi vào lòng dân, đường lối Đổi mới nhanh chóng giành được sự tin cậy, ủng hộ mạnh mẽ của toàn dân.

Nói đến hào khí dân tộc, người ta rất dễ cho rằng đó chỉ đơn thuần là sự bột phát của tình cảm dân tộc. Lịch sử dân tộc và lịch sử Đảng ta cho thấy thực tế không chỉ là như vậy. Hào khí dân tộc là tình cảm, nhưng còn là niềm tin duy lý, khi được khơi dậy và phát huy nó mới có đủ sức bền, đủ sức mạnh để trở thành lý tưởng và ý chí của toàn dân. Cốt lõi của niềm tin duy lý đó chính là sự kiểm chứng thực tế nguyên tắc chính trị của Đảng: luôn đặt đại nghĩa dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và lợi ích quốc gia lên trên hết. Lê Lợi và Nguyễn Trãi tuyên bố:“Việc nhân nghĩa trước ở an dân”,[10]còn Hồ Chí Minh nói:“Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”[11]là vì như vậy.

Niềm tin duy lý đó khi được hiện thực hóa bằng tấm gương tận tụy hy sinh của hàng triệu cán bộ, đảng viên và được khơi dậy và định hướng bởi những khẩu hiệu hành động chính xác, có sức lay chuyển mạnh mẽ lòng dân, thì hào khí dân tộc sẽ được phát huy ở mức cao nhất.

45 năm đã trôi qua, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 ngày càng được khẳng định và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn. Chiến công hiển hách đó không chỉ mở ra một trang sử mới trong lịch sử dân tộc mà còn luôn cổ vũ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên những chặng đường cách mạng mới./.

---------------------------------------

[1]Xem: Phạm Hồng Tung, “Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước Việt Nam từ 1954 đến 1975 – tiếp cận từ một số phương diện quốc tế”.

[2]Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị,Chiến tranh Cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học,Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 588.

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2004, tr. 6.

[4]Xem: Phạm Hồng Tung, “ in trong: Nguyễn Văn Kim – Phạm Hồng Tung,Lịch sử và văn hóa: tiếp cận đa chiều, liên ngành,Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.

[5]Đây là lời đề tựa của danh tướng Trần Khánh Dư cho cuốn “Vạn kiếp tông bí truyền thư” của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Xem:Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 84.

[6]Bản Quân lệnh của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, ngày 7 tháng 4 năm 1975.

[7]Xem:Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 279.

[8]Xem:Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 50.

[9]Hội đồng được thành lập theo Nghị quyết số 241-NQ/TW ngày 25/3/1975 của Bộ Chính trị.

[10]Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr. 282.

[11]Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 31.

GS.TS. Phạm Hồng Tung
Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN

Tại sao sau Đại thắng Xuân 1975, nước ta phải tiến hành việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước? Trình bày kết quả, ý nghĩa của công cuộc thống nhất đất nước về mặt nhà nước

Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng

Thứ năm - 29/04/2021 08:17
[TG] - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc như một trong những trang sử chói lọi nhất, đi vào lịch sử nhân loại như một trong những chiến công thần kỳ của cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc của nhân dân toàn thế giới trong thế kỷ XX. Đặc biệt, đại thắng mùa Xuân 1975 đã để lại nhiều bài học có ý nghĩa lịch sử.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta đến tinh thần chiến đấu, hy sinh quả cảm, thông minh của toàn thể nhân dân ta mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta; tình đoàn kết chiến đấu liên minh bền vững của nhân dân 3 nước Đông Dương và sự ủng hộ mạnh mẽ, chân tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới… Trong đó, “nhân tố quyết định thắng lợi quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng”[1]. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị truyền thống dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đây là những bài học quý báu về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong những giai đoạn quyết định của cách mạng.
Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về bạo lực cách mạng và tư tưởng cách mạng tiến công, kiên quyết, khôn khéo dùng bạo lực cách mạng để kết thúc chiến tranh.
Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” ký ngày 27/1/1973 buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương rút quân khỏi nước ta. Nhưng với bản chất xâm lược, chúng tiếp tục tăng cường viện trợ cho nguỵ quyền nhằm kéo dài chiến tranh theo kiểu “Việt Nam hoá”. Với ý đồ thâm độc, đế quốc Mỹ đã ráo riết thực hiện chủ trương “hiện đại và tinh nhuệ hoá” nguỵ quân, tăng cường chi viện quân sự khối lượng lớn và xúi giục quân nguỵ vi phạm Hiệp định Paris một cách trắng trợn, gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn trong thực thi Hiệp định và bảo toàn vùng giải phóng. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, địa phương do biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, trông chờ “thiện chí” thi hành Hiệp định Paris của phía đối phương, dẫn tới thiếu cảnh giác, để địch mở rộng lấn chiếm nhiều vùng giải phóng. Để khắc phục tình hình, tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã kịp thời ban hành Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới” [Nghị quyết 21]. Nghị quyết khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”[2].
Quán triệt quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương và các cấp uỷ Đảng ở miền Nam đã nhất quán phương châm: “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, tư tưởng chiến lược vẫn là tư tưởng tiến công, tuyệt đối không thể mơ hồ, ảo tưởng. Phương hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải ra sức nhanh chóng tạo thế mới, quyết tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”[3].
Với nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, với ý chí và khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, với quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III đã chỉ ra cho cách mạng miền Nam một hướng đi chính xác, tạo cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về đánh giá, so sánh lực lượng đúng đắn, hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 21, sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, quân và dân ta ở miền Nam đã có nhiều hoạt động quân sự, chính trị nhằm chống địch phá hoại Hiệp định Paris đã phát triển lên đỉnh cao và thu được nhiều thắng lợi. Mặc dù đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố “dính líu” về quân sự ở miền Nam, chỉ huy quân nguỵ Sài Gòn tiếp tục thực hiện các hoạt động phá hoại, xâm lấn các vùng giải phóng, nhưng không còn khả năng đưa quân trở lại Việt Nam. Mỹ rút, nội bộ chính quyền ngụy ngày càng rối ren, lực lượng ngụy quân ngày càng bộc lộ những điểm yếu. Từ năm 1974, quân nguỵ cơ bản phải lui về giữ các đô thị, các đường giao thông và những vùng có ý nghĩa chiến lược. Chúng không thể đương đầu nổi với lực lượng ta đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự. Quân và dân ta đã đánh cho “Mỹ cút” thì cũng có đầy đủ cơ sở và điều kiện để đánh cho “nguỵ nhào”.
Từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị khoá III và Quân uỷ Trung ương họp, đã đánh giá: bước ngoặt căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch đã hoàn toàn có lợi cho ta. Ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở đó Hội nghị “hạ quyết tâm lịch sử hoàn thành giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976… nhất trí duyệt kế hoạch chiến lược cơ bản dự thảo lần thứ VII do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị”[4]và nhấn mạnh: “thực hiện kế hoạch cơ bản năm 1975-1976 nhưng phải ra sức chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ lịch sử đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức tập trung lực lượng của cả nước giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”[5]. Trước diễn biến mau lẹ của tình hình chiến trường miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị cuối tháng 12/1974 đã bổ sung và hoàn chỉnh quyết tâm chiến lược, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với quyết tâm chiến lược đúng đắn, chính xác, kịp thời, việc tổ chức thực hiện chiến lược của ta ngay từ đầu đã ở thế chủ động, nên có điều kiện đánh địch theo ý ta, làm xuất hiện thời cơ và nhanh chóng chớp thời cơ chiến lược, dấn lên đánh đòn quyết định để giành thắng lợi hoàn toàn.

Ban Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, Hà Nội, tháng 4-1975 [Nguồn: baotanglichsu.vn]

Ba là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, xây dựng thế trận, tạo và chớp thời cơ, kiên quyết tiến lên giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất.
Trên cơ sở nắm vững quy luật “mạnh được, yếu thua” của chiến tranh, với quyết tâm chiến lược đã xác định, Đảng đã lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, bí mật triển khai thế trận hiểm và bất ngờ, buộc địch mắc mưu, phải bị động đối phó. Từ sự bị động đối phó, chúng dẫn tới liên tiếp mắc sai lầm về chiến dịch, chiến lược, làm xuất hiện thời cơ có lợi cho ta. Ta nhanh chóng chớp thời cơ có lợi, tập trung sức đánh mạnh địch, đẩy chúng vào thế tuyệt vọng, buộc phải đầu hàng vô điều kiện, ta giành thắng lợi sớm hơn dự kiến.
Để thực hiện chiến lược đã đề ra và sẵn sàng đón thời cơ, chuẩn bị cho các đòn tác chiến chiến dịch quy mô lớn, từ tháng 10/1973, Đảng ta đã có chủ trương cho thành lập các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để tạo khả năng đánh các đòn quyết định chiến trường. Tháng 3/1975, ta đã thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 [tương đương quân đoàn] có sức cơ động mạnh để đánh địch trong các trận quyết chiến chiến lược.
Song song với chuẩn bị lực lượng mạnh, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu chủ động chuẩn bị thế trận và chiến trường theo hướng tạo thế hiểm và bí mật, bất ngờ để chủ động đánh địch. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo chọn Tây Nguyên là chiến trường mở màn trọng điểm với hướng tiến công chiến lược từ phía Nam đánh lên, miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Với cách đánh chiến lược, chiến dịch là kết hợp ba đòn mạnh [chủ lực, nông thôn, đô thị] và bằng 3 mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, trong đó các trận đánh của các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh là những đòn quyết định.
Đúng như dự kiến của Đảng, trận mở màn ở Nam Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4 đến ngày 24/3/1975 đã giành thắng lợi giòn giã, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, lúng túng cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, tạo ra sự chấn động mạnh và phá vỡ một mảng lớn quân địch, buộc chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến dịch và chiến lược, tác động dây truyền đến toàn bộ chiến trường, đẩy chúng đến chỗ cùng quẫn, hoảng loạn. Chớp thời cơ chiến dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo quân và dân ta ở miền Nam mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp với Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến dịch giải phóng các đảo do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”. Trong bối cảnh ấy, đầu tháng 4/1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đảng luôn nắm chắc tình hình chiến trường, lãnh đạo chỉ đạo kịp thời, linh hoạt các lực lượng thừa thắng xông lên, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, với ý chí và quyết tâm “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ thời gian, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến, quyết thắng”[6], bộ đội và nhân dân ta trên khắp các chiến trường đã dũng mãnh xông lên với tinh thần “tất cả cho thắng lợi”.
Sau 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thần tốc truy đuổi quân địch đến tận sào huyệt cuối cùng, bằng trận quyết chiến chiến lược lịch sử - chiến dịch Hồ Chí Minh, Sài Gòn - Gia Định được hoàn toàn giải phóng, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ cách mạng của quân và dân ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của bè lũ bán nước và xâm lược.
Bốn là, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi trọn vẹn.
Thành công nổi bật khác về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta trong đại thắng mùa Xuân 1975 là đã tạo ra và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi trọn vẹn, không để xảy ra đổ vỡ nghiêm trọng. Đảng chỉ đạo lấy tiến công quân sự của các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh làm “đòn cân não”, kết hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của quần chúng đấu tranh chính trị và binh vận, làm tan rã nhiều bộ phận quân địch, giải phóng từng địa bàn chiến lược rộng lớn, tiến tới tổng công kích, tổng nổi dậy để giành quyền làm chủ và giành thắng lợi hoàn toàn.
Đảng ta nắm vững quy luật chiến tranh, quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp và quy luật “quyết định chiến trường là lực lượng vũ trang”, tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa vũ trang.

Cùng với sử dụng sức mạnh quân sự của các binh đoàn chủ lực để làm tan rã hệ thống phòng thủ của địch và lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, Đảng đã chỉ đạo kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với phát động quần chúng nhân dân nổi dậy làm chủ địa bàn, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn và rộng khắp.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện tinh thần quật khởi của cả dân tộc Việt Nam khi tiến hành một cuộc “trường chinh” vĩ đại với ý chí thép, chấp nhận hy sinh tất cả để đổi lấy hòa bình, non sông thu về một mối, hoàn thành khúc khải hoàn ca“to lớn nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất, trọn vẹn nhất”.
Năm là, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng sáng tạo, tài tình nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo và tài tình nghệ thuật quân sự dân tộc đã là một tài sản và truyền thống quý báu của Đảng ta. Song, trong đại thắng mùa Xuân 1975, sự vận dụng đó đã phát triển thành một đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đảng đã xác định phương hướng và mục tiêu tiến công đúng đắn, lựa chọn thời cơ tiến công thích hợp, cơ động và tập trung lực lượng kịp thời, đề ra hình thức tác chiến có hiệu lực lớn nhất, tạo bất ngờ và triệt để lợi dụng và khoét sâu sai lầm của địch, buộc chúng phải bị động, bất ngờ đối phó. Ta chớp thời cơ thuận lợi, kiên quyết và thần tốc tấn công, chỉ huy chủ động, táo bạo, linh hoạt để liên tiếp tiêu diệt, phá tan hệ thống phòng ngự và các tập đoàn quân địch, làm tan rã nhiều lực lượng, tiến tới đập tan chế độ ngụy quyền được sự bảo trợ của Mỹ.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên lễ đài tại Lễ mít tinh mừng Việt Nam đại thắng, ngày 15/5/1975 [Nguồn: baotanglichsu.vn]

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên tầm cao mới trong thời đại mới, nên đã tạo được sức mạnh áp đảo quân địch, luôn đánh địch ở thế mạnh và đánh tiêu diệt gọn, khiến địch phải bất ngờ và liên tục thất bại, tan rã. Đồng thời, làm cho nhân tố chính trị, tinh thần của bộ đội và nhân dân càng được tăng lên; cán bộ, chiến sĩ ta càng xốc tới mãnh liệt hơn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam được tỏa sáng trong thời đại Hồ Chí Minh để đưa đất nước đến ngày toàn thắng.
Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong “cuộc đụng đầu lịch sử” chống đế quốc Mỹ xâm lược. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[7]./.

46 năm đã trôi qua, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử của đại thắng mùa Xuân năm 1975 ngày càng được khẳng định và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn.Những bài học ấy sẽ còn có giá trị lâu dài đối với với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới


TS. NGUYỄN ĐÌNH TƯƠNG
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự
HOÀNG MẠNH ANH
Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
______________________
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37, tr.983
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.232.
[3] [4] [6] Tổng cục Chính trị:Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam 1944-2000, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 2002, tr.554-555, 571, 592.
[5]Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1980, tr.281.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội lần thứ IV của Đảng, Nxb. Sự thật, H. 1977, tr.5-6.

Nguồn tin: Tạp chí Tuyên giáo:

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân và ý chí thống nhất đất nước

Ngày đăng: 29/04/2018 04:39
Mặc định Cỡ chữ

1. Với một niềm tin mãnh liệt vào chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chính nghĩa, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chiến đấu bền bỉ, anh dũng trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954-1975], giành thắng lợi, thống nhất non sông về một mối. Thắng lợi đó là sự kết hợp của ý chí sắt đá, nguyện vọng thống nhất của nhân dân với chiến lược chỉ đạo kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Trên cơ sở thực tế diễn biến ngày càng có lợi cho cách mạng trong thời gian cuối của cuộc kháng chiến, Đảng ta đã đề ra chủ trương chiến lược quan trọng, chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Sau khi Hiệp định Pari [năm 1973] về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ cùng các trang thiết bị quân sự phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 60 ngày kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Việc quân chiến đấu Mỹ lúc cao nhất lên đến 543.000 người ở miền Nam [năm 1969] phải lần lượt rút ra khỏi miền Nam đánh dấu thất bại của sức mạnh quân sự Mỹ, đánh dấu quá trình Mỹ chấp nhận từ bỏ biện pháp quân sự, chuyển sang đàm phán tìm giải pháp chính trị, ngoại giao để kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, tình hình miền Nam Việt Nam sau khi ký Hiệp định Pari vẫn diễn biến phức tạp. Mặc dù phải rút quân ra khỏi miền Nam, nhưng đế quốc Mỹ vẫn tìm cách viện trợ, đưa thêm vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam, tiếp sức cho quân đội của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục chiến tranh, lấn chiếm vùng giải phóng, nhằm xây dựng, củng cố địa bàn chiếm đóng, tạo thế đối trọng và làm suy yếu các lực lượng cách mạng.

Trước tình hình đó, nhằm đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc chặng đường tiến hành cuộc kháng chiến qua 18 năm, định ra chủ trương, phương hướng cho cách mạng miền Nam, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy chủ chốt của các chiến trường miền Nam được triệu tập về Hà Nội trực tiếp báo cáo tình hình. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa III] được triệu tập [tháng 10/1973], ra Nghị quyết nêu rõ: “Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp các mặt trận đó cho thích hợp”[1]… Theo đó, cách mạng miền Nam cần “chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”[2].

Những thắng lợi liên tiếp cuối năm 1973 và nửa đầu năm 1974 trên chiến trường Khu 5 và Tây Nguyên, Khu 7, vùng giải phóng được mở rộng, kéo dài từ suốt Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ, tạo thế áp sát Sài Gòn. Thời cơ và điều kiện thuận lợi để giải phóng miền Nam xuất hiện. Nối tiếp những nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, kế hoạch giải phóng miền Nam bắt đầu được triển khai từ tháng 8/1973, hoàn thiện từng bước theo thời gian và biến chuyển trên chiến trường. Bản kế hoạch xác định quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, đánh chiếm Sài Gòn… giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân... ngay từ giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975, 1976”[3]. Bộ Chính trị thống nhất lấy chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu, mở màn cho trận quyết chiến chiến lược trong năm 1975 với mục tiêu tiến công là thị xã Buôn Ma Thuột.

Đồng thời, công tác chuẩn bị lực lượng cho đòn tấn công chiến lược được tiến hành tích cực. Theo tiếng gọi của cách mạng miền Nam, hầu hết thanh niên miền Bắc đều xung phong nhập ngũ. Quân số từ miền Bắc bổ sung cho chiến trường năm 1973 là 129.311 người, đến đầu năm 1975 tăng lên 238.646 người. Trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, chưa bao giờ trong thời gian ngắn cách mạng miền Nam được chi viện số lượng bộ đội lớn như vậy. Các quân đoàn chủ lực được thành lập, thể hiện bước phát triển lớn mạnh vượt bậc của quân đội cách mạng.

Sau thắng lợi trong Chiến dịch tiến công đường 14 - Phước Long đầu năm 1975, Đảng ta khẳng định Mỹ không thể đưa quân trở lại miền Nam Việt Nam. Đây là cơ sở vững chắc để Bộ Chính trị thông qua quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, đồng thời dự kiến “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam vào năm 1975”[4]. Ngày 10/3/1975, trận đánh then chốt của cuộc tổng tiến công đánh vào Buôn Ma Thuột giành thắng lợi đã đưa đến kết quả ngoài dự kiến: toàn bộ chính quyền, quân đội Sài Gòn ở Tây Nguyên tháo chạy, thực sự mở ra thời cơ chiến lược lớn. Bộ Chính trị Trung ương Đảng liên tiếp bổ sung chỉ đạo chiến lược với quyết tâm giành thắng lợi lớn nhất trong thời gian nhanh nhất. Trong suốt 20 năm, tình thế cách mạng chưa bao giờ thuận lợi như lúc này, do vậy “phải tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu”. Phương án thời cơ đã được triển khai với việc mở chiến dịch tiến công Trị Thiên - Huế và chiến dịch tiến công Đà Nẵng. Chỉ sau 4 ngày [từ ngày 26 đến ngày 29/3/1975] quân và dân ta đã giải phóng hai thành phố, hai căn cứ quân sự trọng yếu của địch là Huế và Đà Nẵng.

Trong cục diện cuộc chiến đang chuyển nhanh như “1 ngày bằng 20 năm”, trước thực tế cách mạng miền Nam đang trên đà phát triển như vũ bão, ngày 01/4/1975, Bộ Chính trị chỉ thị: “Nắm vững hơn nữa thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn để thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 không thể để chậm”[5]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rõ hơn tinh thần cuộc chiến: “Cuộc tiến công lịch sử của Quang Trung - Nguyễn Huệ lại hiện về trong ký ức. Ngày 04/4, tôi gửi điện cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2 đang hành quân: “… Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang. Cần hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng… Ngày 7/4, tôi ra lệnh cho các đơn vị đang đổ vào chiến trường: “Mệnh lệnh: 1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng. 2. Truyền đạt tức khắc tới đảng viên, chiến sĩ”[6]. Thực hiện mệnh lệnh, quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam nêu cao quyết tâm, vượt qua mọi khó khăn gian khổ và hy sinh, gấp rút đẩy mạnh tốc độ hành quân, mở đường mà đi, đánh địch mà tiến. Ngày 08/4, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị phổ biến nội dung Nghị quyết của Bộ Chính trị về quyết tâm giải phóng miền Nam trong tháng 4, không để chậm, công bố quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Ngày 14/4, Bộ Chính trị quyết định lấy tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

5 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổng công kích, đánh chiếm 5 mục tiêu then chốt đã lựa chọn trong nội đô: sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Dinh Độc lập, Tổng Nha Cảnh sát đô thành, Biệt khu Thủ đô. Từ các hướng đông, đông nam, bắc, tây bắc và tây - tây nam, quân ta đồng loạt tiến công vào Sài Gòn phối hợp với quần chúng nhân dân nổi dậy. Đến 11h30 phút, ta làm chủ các mục tiêu và cắm cờ Mặt trận dân tộc giải phóng lên nóc Dinh Độc lập. Tổng thống Dương Văn Minh và nội các chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng cách mạng không điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là mốc son chói lọi, minh chứng cho ý chí quyết tâm không có gì có thể lay chuyển được của toàn thể dân tộc Việt Nam, sức mạnh đoàn kết và khao khát hòa bình, hoàn thành việc giải phóng hoàn toàn miền Nam mở ra điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất đất nước, thực hiện tâm nguyện thống nhất non sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể dân tộc Việt Nam. Lịch sử Việt Nam hiện đại đã ghi nhận ngày 30/4 hàng năm là “Ngày thống nhất đất nước”.

2. Sau chiến thắng lịch sử 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng song về mặt lãnh thổ, trên mỗi miền có một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Ở miền Bắc, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ở miền Nam có Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn của Chính phủ. Từ thực tế đó, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng [tháng 7/1975] nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”[7]. Thống nhất lãnh thổ, thống nhất nhà nước là yêu cầu khách quan bức thiết, sẽ tạo ra sức mạnh mới, động lực mới để phát triển kinh tế, xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Xuất phát từ ý nghĩa đó, tiến hành thống nhất nhà nước càng sớm thì càng phát huy nhanh chóng sức mạnh toàn diện của đất nước.

Để thực hiện thống nhất đất nước, từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định khâu then chốt để thống nhất Tổ quốc là thực hiện sự thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Đó là điều kiện cơ bản để đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị nhấn mạnh: “Cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước. Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và chủ nghĩa xã hội, Quốc hội đó sẽ xác định thể chế Nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và quy định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất”. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí hoàn toàn mọi vấn đề thuộc về chủ trương, bước đi, biện pháp nhằm thống nhất về mặt nhà nước. Hội nghị quyết định cần tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung của cả nước và xác định cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tiến hành vào đầu năm 1976, theo các nguyên tắc dân chủ là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Thành công của Hội nghị Hiệp thương chính trị là một thắng lợi lớn trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước. Hội nghị không chỉ đạt được sự nhất trí cao về chủ trương, phương hướng mà còn đề ra được những biện pháp cụ thể để thực hiện nguyện vọng tha thiết của toàn thể nhân dân ở cả hai miền Nam - Bắc là sớm thành lập một nhà nước chung, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Chủ trương, nghị quyết của Hội nghị được triển khai khẩn trương nhưng theo từng bước cụ thể ngay sau khi Hội nghị kết thúc.

Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước được tiến hành. Nguyện vọng tha thiết trước sau như một của nhân dân ta là nước nhà độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội đã thành hiện thực. Nhân dân ta bước vào cuộc Tổng tuyển cử với tinh thần phấn khởi, tự hào trước thắng lợi huy hoàng đã giành được, với lòng tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam và tiền đồ vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa VI đã thành công rực rỡ với trên 23 triệu cử tri đi bầu với tư thế của người làm chủ đất nước. Tỷ lệ cử tri đi bầu trong cả nước đạt 98,77%, trong đó miền Bắc đạt 99,36%, miền Nam đạt 98,59%. Có nhiều xã, huyện, thị, đơn vị vũ trang và khu vực bỏ phiếu đạt 100% cử tri đi bầu. Cử tri đã lựa chọn và bầu đủ 492 đại biểu Quốc hội ngay trong vòng bầu cử đầu tiên.

Quốc hội khóa VI là biểu tượng của độc lập gắn liền với dân chủ, thống nhất về lãnh thổ, về cơ cấu hành chính và Quốc hội. Quốc hội đã nhất trí thông qua các nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô và quốc ca của nước Việt Nam thống nhất: Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa lấy tên là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc kỳ nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh; Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Thủ đô là Hà Nội; Quốc ca là bài Tiến quân ca.

Cuộc Tổng tuyển cử và sự ra đời của Quốc hội khóa VI là một sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu sự thành công quyết định của nhân dân ta trên con đường thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Đây là thành quả vĩ đại của 45 năm nhân dân ta đấu tranh cách mạng không ngừng kể từ khi Đảng ra đời, là thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thắng lợi của cuộc kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đó còn là thắng lợi khẳng định tính đúng đắn của con đường giải phóng dân tộc, ý chí sắt đá thống nhất non sông như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam ta là một. Dù cho sông cạn đá mòn, Nhân dân Nam, Bắc là con một nhà.

Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam. Với thắng lợi đạt được đã thể hiện tinh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập và thống nhất của toàn thể nhân dân ta. Thống nhất đất nước đã tạo điều kiện để tiếp tục hoàn thành thống nhất các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước; tạo điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện đất nước, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo ra khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho quá trình phát triển tiếp theo của dân tộc Việt Nam./.

PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà -Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

ThS. Lê Mai Trang -Học viện Chính trị, Bộ Công an

------------------------

Ghi chú:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb CTQG, H.2004, tr.237.

[2] Sđd, tr.239.

[3] Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng [Bảy Cường], ngày 10/10/1974, về Kết luận đợt một Hội nghị Bộ Chính trị, tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TK/1294.83.

[4] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [1954-1975], tập 2, Nxb Sự thật, H.1991, tr.185.

[5] Trích điện văn số 956/TK [14h ngày 01/4/1975] của đồng chí Lê Duẩn gửi anh Bảy Cường, anh Sáu, anh Tuấn; Tư liệu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TK/1294.83.

[6],[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb CTQG, H. 2004, tr.36, tr.395.

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề