Tại sao gọi là đường cetose và đường aldose

Aldose vs Ketose

Kẹo đã chinh phục được sự thèm ăn của mọi người. Một bữa ăn đầy đủ không thể được gọi là đầy đủ mà không có món tráng miệng được phục vụ trên bàn của chúng tôi. Sau khóa học chính, nó đã được truyền thống để ăn đồ ngọt hoặc món tráng miệng. Khi chúng tôi còn nhỏ, mẹ của chúng tôi sẽ phục vụ sôcôla, bánh pho mát và kẹo que. Trẻ em rất háo hức muốn chomp vào sôcôla và bánh pho mát và để có một liếm trên kẹo que. Những người lớn có thể thích trái cây ngọt như xoài và dâu tây. Những người khác có thể thích bánh rán và bánh quy. Kẹo là những phát minh thực sự tuyệt vời bởi vì chúng đã chiếm được trái tim của mọi người.

Vì mọi người đều yêu đồ ngọt, có những ngày nghỉ cụ thể cho họ. Khi tháng hai đến, nhiều kẹo đang được sản xuất bởi vì đó là Ngày Valentine. Sôcôla là những ngôi sao cho sự kiện nói trên. Phụ nữ và nam giới cũng thích nhận chocolate trong dịp Valentine. Một kỳ nghỉ ngọt ngào là lừa hoặc xử lý của Halloween! Halloween không chỉ dành cho ma và ghoul; đó cũng là thời gian để nhận kẹo.

Kẹo giàu carbohydrate vì chúng được làm từ đường. Kẹo có thể là nước mắm, nhưng bạn nên xem sức khỏe và chế độ ăn uống của mình! Vì chúng ta đã nói về đường, chúng ta hãy thảo luận sự khác nhau giữa aldo và ketose.

Theo một số nguồn trực tuyến đáng tin cậy, aldose là một monosaccharide với một nhóm aldehyde. Aldose có thể được phân thành 5 loại: diode, triose, tetroses, pentose và hexose. Dưới hexose là: allose, altrose, mannose, gulose, idose, talose, galactose, và nhóm phổ biến nhất, glucose. Aldoses chủ yếu được tìm thấy trong thực vật. Sau đó, chúng được chế biến để chuyển thành một thứ hữu ích hơn như glucose. Các nguồn thực phẩm giàu chất glucose là ngũ cốc, hoa quả, rau, các sản phẩm từ sữa và đường tinh luyện.

Các ví dụ trên thuộc về nhóm aldose vì chúng chỉ có một nguyên tử cacbon trong nhóm aldehyde. Các phân tử aldo cũng có năm nhóm hydroxyl khác. Phần lớn các phân tử aldo là cấu trúc tuần hoàn. Thông thường, khi các phân tử có cấu trúc tuần hoàn, chúng tạo thành một cấu trúc vòng sáu thành viên được gọi là vòng hemiacetal do sự có mặt của cacbon.

Mặt khác, một ketose là một đường với một nhóm ketone cho mỗi phân tử. Ví dụ về ketose là: trioses, tetroses, pentoses, hexoses, heptoses, octoses và nonoses. Hexose cũng là ketose nếu nhóm của họ bao gồm: fructose, psicose, sorbose và tagatose. Các nguồn giàu fructose là hoa quả như agave. Các loại fructose khác là: nho khô, mận, ngày, và sung. Các loại nước hoa quả ưa thích, mật ong và mật mía của chúng tôi, cũng có chứa lượng fructose cao. Các loại thực phẩm chế biến như: sốt cà chua, nước sốt thịt nướng, hỗn hợp nước chanh, nước trộn salad, ngũ cốc có đường và các loại nước sốt chua đều là các nguồn fructose cao.

Theo các nghiên cứu, nguyên tử cacbon trong nhóm xeton luôn luôn là số hai. Nếu aldose tạo thành một vòng sáu thành viên, ketose, giống như fructose, tạo thành một vòng năm thành viên gọi là hemiketal. Tên hóa học của đường ketose phụ thuộc vào số lượng các nguyên tử cacbon mà chúng có. Nếu có năm nguyên tử cacbon, nó sẽ được gọi là ketopentose và vân vân.

Việc tiêu thụ đồ ngọt rất khó chống lại. Tuy nhiên, đồ ngọt không phải lúc nào cũng tốt cho cơ thể và sức khoẻ. Bạn có thể bị tiểu đường vì tiêu thụ quá nhiều kẹo. Aldose và ketose có thể là những lý do tại sao chúng ta có nhiều niềm vui trong việc ăn uống, nhưng chúng ta nên luôn nhớ rằng bất kỳ lượng đường dư thừa nào trong số này có hại cho sức khoẻ của chúng ta.

Tóm tắt:

  1. Aldose là một monosaccharide với một nhóm aldehyde. Một ketose là một đường với một nhóm ketone cho mỗi phân tử.

  2. Aldo chủ yếu tìm thấy trong thực vật. Một ví dụ của aldose là glucose.

  3. Ketose có thể được tìm thấy trong thực phẩm chế biến. Một ví dụ về ketose là fructose.

Có nhiều loại đường khác nhau. Người ta dựa vào đặc thù hóa học đặc trưng của chúng, đường hoàn toàn có thể chia làm 2 loại, đó là đường khử và đường không khử .Bạn đang xem : Định nghĩa đường khử là gì

Đường khử là gì

Đường khử là đường có chứa nhóm aldehyt hoặc xeton

Đường khử [reducing sugar] là các đường chứa Aldose [nhóm aldehyt R-CH=O] hoặc Cetose [nhóm xeton C=O] tự do, có khả năng hoạt động như một chất khử. Có tính chất hóa học đặc trưng của nhóm chức CHO, CO. Vì vậy nó vẫn còn được gọi là đường aldose hoặc đường cetose.

– Đường khử hoàn toàn có thể bị oxy hóa bởi những tác nhân oxy hóa yếu .– Trong môi trường tự nhiên nước đường khử tạo ra 1 hoặc nhiều hợp chất có chứa nhóm aldehyde .– Dễ dàng chuyển hóa thành những chất khác mà không cẩn phải thủy phân trước .– Một số đường khử thông dụng : glucose, fructose, và galactose, Melibiose, Cellobiose, Gentiobiose … …

Vậy thế nào là đường không khử?

Đường không khử [ non-reducing sugar ] ngược lại là những đường không chứa nhóm Aldose hoặc Cetose tự do. Là carbonhydrate không hề hoạt động giải trí như những chất khử do không có những nhóm aldehyt tự do hoặc ceton tự do .Trong môi trường tự nhiên nước, đường không khử không tạo ra bất kể hợp chất nào có chứa một nhóm aldehyde. Muốn chuyển hóa thành [ gây ra sự khử ] chất khác thì cần phải được thủy phân trước .Một số đường không khử : Sucrose [ saccharozo ], Trehalose … ..Sự độc lạ giữa đường khử và đường không khử nằm ở cấu trúc của nó. Đường có nhóm aldehyde và ceton, hoàn toàn có thể khử thành nhóm – OH bằng phản ứng hóa học. Các chất khử phổ cập cho thấy rõ đặc thù này là thuốc thử Tollen, thuốc thử Fehling, thuốc thửu Bebedict … .

Các phương pháp xác định đường khử

Nguyên tắc chung của những chiêu thức là dựa trên những phản ứng đặc trưng của nhóm chức aldose hoặc cetose xuất hiện trong đường, để xác lập tính khử của đường .

1. Định lượng đường khử bằng phương pháp DNS

Nguyên tắc

Dựa trên phản ứng tạo màu giữa đường khử với thuốc thử acid dinitrosalicylic [DNS]. Cường độ màu của hỗn hợp phản ứng tỷ lệ thuận với nồng độ đường khử trong phạm vi nhất định. Dựa trên đồ thị đường chuẩn đối với glucozo tinh khiết tính đường hàm lượng đường khử trong mẫu phân tích.

Xem thêm :

Cách tiến hành

Cho 5 g DNS và 300 ml nước cất vào cốc, hòa tan trọn vẹn ở 50 oC. Sau đó cho thêm 50 ml dung dịch NaOH 4 N. Cuối cùng thêm 150 g muối tartrat kép, hòa tan trọn vẹn rồi cho trong bình định mức 500 ml .Thêm nước cất tới vạch định mức. Đựng trong lọ thủy tinh màu sẫm. Nếu sau 1-2 ngày thấy Open cặn lắng thì đem lọc cặn. Chuẩn 3 ml thuốc thử DNS bằng HCL 0,1 N với thông tư phenolphthalein, nếu hết 5-6 ml HCL là được. [ Nếu cần thêm NaOH để đạt thiên nhiên và môi trường mạnh cho thuốc thử ] .Dựng đồ thị chuẩn glucose. Cân glucose tinh khiết 99 % bằng cân nghiên cứu và phân tích từ 0.12 – 0.42 g. Hòa tan đường glucozo bằng nước cất và định mức tới 1 lít .Tiến hành đo OD ở bước tuy nhiên 540 nm với những mẫu nghiên cứu và phân tích, trong đó mẫu nghiên cứu và phân tích là 2 ml dịch đường + 1 ml DNS, cho vào ống nghiệm nút chặt, bỏ vào đun sôi cách thủy 5 phút, lấy ra làm nguội rồi đem đo OD. Mẫu đối chứng là nước cất. Vẽ đồ thị chuẩn với trục tung là OD, trục hoành là nồng độ đường [ mg / l ]Xác định hàm lượng đường khử trong mẫu : Pha loãng mẫu sao cho hàm lượng đường khử trong mẫu khoảng chừng 0.12 – 0,42 mg / l rồi thực thi đo xác lập như trong phần dùng đồ thị chuẩn. Dựa vào đồ thị chuẩn tra được hàm lượng đường khử trong mẫu nghiên cứu và phân tích .

Chú ý: Màu của hỗn hợp chỉ tạo ra trong môi trường kiềm, do vậy những mẫu acid phải được trung hòa trước khi đem phân tích. Các mẫu đun có thể để được một thời gian [20 phút trước khi đo].

Kết quả

Xem thêm: Yakuza – Wikipedia tiếng Việt

Lượng đường khử được tính : X = a. n. VTrong đó :X- lượng đường trong dung dịch cần xác định ga- lượng đường khử trong mẫu đo gn- hệ số pha loãng dịchV-số thể tích dịch đo, ml

2. Xác định hàm lượngđường khửbằng phương pháp bertrand

X – lượng đường trong dung dịch cần xác lập ga – lượng đường khử trong mẫu đo gn – thông số pha loãng dịchV-số thể tích dịch đo, ml

Nguyên tắc:

Dung dịch Fehling A và B [ gồm có CuSO4 và tartrat kép trong môi trường tự nhiên kiểm ] khử đường khử có trong dịch nghiên cứu và phân tích để tạo thành đồng oxít kết tủa đỏ .

Kết tủa đồng màu đỏ sẽ bị sulfat sắt III hòa tan theo phản ứng sau :
Tiếp theo ta định phân lượng FeSO4 mới tạo thành bằng dung dịch KMnO4 :
Căn cứ vào hàm lượng KMnO4 tiêu tốn sẽ nhận được số mol Cu. Sau đó tra phụ lục Quan hệ giữa lượng Cu và lượng glucozo hoặc maltozo khi xác định lượng đường khử theo phương phap Bertrand ta sẽ biết được lượng đường chứa trong mẫu thí nghiệm .

Tiến hành

Dùng ống đong lấy 20 ml Fehling A và 20 ml Fehling B cho vào bình tam giác rồi dùng pipet hút 20 ml dung dịch đường đã giải quyết và xử lý và pha loãng vào .Lắc đều rồi đặt bình tam giác lên nhà bếp điện hoặc bếp gas, đun sao cho sau 3-4 phút thì sôi và cho sôi tiếp đúng 3 phút nữa. Lấy bình ra khỏi nhà bếp và để lắng, sau đó đem lọc qua phếu xốp rồi rửa nhiều lần bằng nước cất nóng 70-80 oC .

Chú ý: Khi lọc rửa phải luôn giữ nước trong phễu để tránh hiện tượng oxít đồng bị oxy hóa do tiếp xúc với không khí. Rửa xong ta dùng 25 ml dung dịch Fe [SO4]3 để hòa tan oxít đồng, rồi cũng rửa 2-3 lần bằng nước nóng. Dung dịch nhận được sau khi hòa tan và rửa đem chuẩn bằng dd KMnO4 0.1 N đến xuất hiện màu hồng và không mất đi sau 2-3 ngày.

Số ml KMnO4 0.1 N tiêu tốn đem nhân với 6.36 ta sẽ được lượng m g đồng, sau đó tra bảng Bectran ta sẽ biết lượng đường chứa trong 20 ml dịch thí nghiệm và gọi là a .

Kết quả:

Hàm lượng đường khử [ X, % m / m ] được tính theo công thức :X = 100. a / mTrong điều kiện kèm theo thí nghiệm đã miêu tả ở trên, m là khối lượng mẫu tham gia trong thí nghiệm .

3.Xác định đường khử bằng phương pháp Graxianop

Nguyên tắc:

Đường khử khi đun nóng với dung dịch kiềm cùng với ferixyanua sẽ khử ferixyanua thành feroxyanua và đường khử chuyển thành acid đường. Dùng metylen xanh làm chất chỉ thị sẽ mất màu xanh khi phản ứng kết thúc. Phản ứng như sau:

Xem thêm: 3*** Ánh sáng là gì? Ánh sáng đơn sắc là gì?

Tiến hành:

Dùng pipét lấy dung 20 ml dung dịch ferixyanua kali cho vào bình tam giác 250 ml, thêm vào đó 5 ml dung dich KOH 2,5 N và 3-4 giọt xanh metylen. Lắc nhẹ và đặt lên nhà bếp điện, đun sao cho sau 1-2 phút thì sôi .Tiếp đó dùng dung dịchđường loãng để chuẩn tới mất màu của xanh metylen. Chú ý màu của hỗn hợp phản ứng còn ferixyanua thì khi nhỏ dịch đường vào, đường sẽ khử ferixyanua kali, khi vừa hết ferixyanua thì ngay lập tức 1 giọt đường dư sẽ khử và là mất màu của xanh metylen chất thông tư của phản ứng .

Video liên quan

Chủ Đề