Quan hệ dân sự là gì

  • Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự, do vậy nó cũng có những đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự nói chung, những nghĩa vụ dân sự còn có những đặc điểm riêng, đặc thù. Đặc điểm thứ nhất của nghĩa vụ dân sự thuộc tính của quan hệ tài sản được xác lập trên căn cứ luật định hoặc theo thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Nghĩa vụ dân sự là mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên chủ thể luôn luôn xác định được. Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ dân sự rất đa dạng, gồm cá nhân, pháp nhân, Nhà nước, hộ gia đình, tổ hợp tác và các chủ thể khác của quan hệ nghĩa vụ pháp luật dân sự nói chung. Tuy nhiên, chủ thể của quan hệ nghĩa vụ dân sự là những người được xác định có tư cách chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nội dung của quan hệ nghĩa vụ dân sự là mối liên hệ hữu cơ, mật thiết giữa quyền dân sự của một bên và nghĩa vụ dân sự của một bên. Phạm vi thể hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ phụ thuộc vào việc thoả thuận của các bên hoặc pháp luật có quy định và tính chất khách quan của quan hệ luôn luôn được thể hiện. Nghĩa vụ dân sự có được thực hiện đúng, đủ hoặc nghĩa vụ bị xâm phạm do hành vi của một hoặc các bên trong quan hệ nghĩa vụ, là căn cứ để xác định trách nhiệm dân sự trong quan hệ nghĩa vụ. Nghĩa vụ dân sự là một loại quan hệ pháp luật tương đối về tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ, có vị trí độc lập với các quyền chính trị, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự và nghĩa vụ về các loại thuế của cá nhân, pháp nhân,… theo quy định của pháp luật.

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email: nhch@lawnet.vn

Quan hệ pháp luật dân sự hay gọi tắt là quan hệ dân sự là quan hệ xã hội do các quan hệ pháp luật về dân sự điều chỉnh, tức là quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ liên quan đến yếu tố nhân thân và tài sản trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại…

1. Khái niệm quan hệ pháp luật dân sự

Quan hệ pháp luật dân sự hay gọi tắt là quan hệ dân sự là quan hệ xã hội do các quan hệ pháp luật về dân sự điều chỉnh, tức là quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ liên quan đến yếu tố nhân thân và tài sản trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại…

2. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự

Yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự là những thành phần tham gia vào quan hệ pháp luật đó. Theo đó, quan hệ pháp luật dân sự được cấu thành bởi các yếu tố sau: chủ thể, khách thể, nội dung.

Dưới đây là chi tiết các thành tố trong quan hệ pháp luật dân sự:

* Chủ thể

Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những “người” tham gia vào các quan hệ đó. Phạm vi “người” tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: Cá nhân, [công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch], pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia với tư cách là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự.

Để tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các chủ thể phải có đủ tư cách chủ thể. Cho nên, có loại quan hệ chủ thể là công dân, như công dân có quyền để lại di sản thừa kế còn các tổ chức chỉ được hưởng thừa kế theo di chúc; có loại chủ thể chỉ được tham gia vào loại quan hệ nhất định, như hộ gia đình được tham gia trong các quan hệ sử dụng đất, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hay Nhà nước là chủ sở hữu [thực hiện quyền của chủ sở hữu] đối với các tài nguyên thiên nhiên và đất đai… Trong phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể tham gia là công dân, pháp nhân, Nhà nước, hộ gia đình, tổ hợp tác như các quan hệ về quyền sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng, bồi thường thiệt hại…

Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể quyền luôn luôn được xác định, chủ thể nghĩa vụ có thể là một “người” cụ thể, cũng có thể là tất cả những người còn lại.

* Khách thể

Khách thể của quan hệ pháp luật là một phạm trù pháp lí, là bộ phận cấu thành của quan hệ pháp luật. Đó là những cái mà các chủ thể của quan hệ pháp luật hướng tới, tác động vào. Nói cách khác, là những lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần mà pháp luật bảo vệ cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể là bộ phận của thế giới vật chất, cũng có thể là những giá trị tinh thần. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự được chia thành năm nhóm sau:

- Tài sản

Theo quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005, tài sản bao gồm vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

Vật với ý nghĩa là một phạm trù pháp lí, là bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được nhu cầu nào đó của con người nhưng không phải bất cứ bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này không được coi là vật nhưng ở dạng khác lại được coi là vật, ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước sông, nước biển… nếu được đóng vào chai, bình thì có thể được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Khái niệm vật ở đây có thể được mở rộng do sự phát triển của khoa học công nghệ, như chất thải nếu được dùng lại…

Tiền là loại tài sản đặc biệt có giá trị trao đổi với các loại hàng hoá khác. Tiền do Nhà nước ban hành, giá trị của tiền được xác định bằng mệnh giá ghi trên đồng tiền đó. Những đồng tiền có giá trị lưu hành mới được coi là tiền.

Giấy tờ có giá là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước hoặc các tổ chức phát hành theo trình tự nhất định. Có nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau với những quy chế pháp lí khác nhau như:

Công trái, trái phiếu, kì phiếu, cổ phiếu, séc… Giấy tờ có giá là hàng hoá trong một thị trường đặc biệt – thị trường chứng khoán.

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong lưu thông dân sự, bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ, đó là: Quyền đòi nợ, yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền đối với tác phẩm, quyền sở hữu công nghiệp…

Cần phân biệt vật với hàng hóa. Khái niệm hàng hóa được đề cập trong chính trị – kinh tế học được hiểu là sản phẩm do con người tạo ra để trao đổi, nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên được coi là vật nhưng không phải là hàng hóa. Mọi hàng hóa đều là vật nhưng không phải mọi vật là hàng hóa.

Vật và tài sản cũng không đồng nghĩa với nhau. Tài sản có thể là một vật, có thể là tập hợp các vật – khối tài sản. Tài sản còn gồm cả các quyền và nghĩa vụ tài sản như quyền đòi nợ, nghĩa vụ trả nợ…

- Hành vi và các dịch vụ

Nếu coi khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là cái mà xử sự của các chủ thể hướng tới, tác động vào thì hành vi của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ là khách thể của quan hệ nghĩa vụ. Đó là cái mà quyền cũng như nghĩa vụ của các chủ thể hướng tới đầu tiên, trực tiếp, đó là xử sự của các chủ thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động tùy theo các quan hệ pháp luật cụ thể.

Có những hành vi mà kết quả của nó được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể. Trong trường hợp này, muốn xem xét hành vi có thực hiện đúng hay không phải căn cứ vào kết quả của việc thực hiện hành vi đó và như vậy hành vi này được vật chất hóa. Vì vậy, có quan điểm cho rằng kết quả của hành vi là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự. Điều này không thể giải thích được trong các quan hệ dân sự mà hành vi không được vật chất hóa như tư vấn pháp luật với hành vi tư vấn… Trong các trường hợp như vậy, căn cứ đánh giá chỉ có thể là hành vi của người phải thực hiện hành vi mà thôi. Trong trường hợp hành vi được thể hiện bằng không hành động thì bản thân “sự không hành động” đó cũng đủ cấu thành khách thể của quan hệ pháp luật dân sự.

Hiện nay, trong khoa học pháp lí chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm dịch vụ nhưng thuật ngữ “dịch vụ” đã được sử dụng thực tế trong khoa học pháp lí và khoa học kinh tế. Có thể nói rằng dịch vụ là một hoặc nhiều công việc mà kết quả của nó có thể vật chất hoá nhưng nó không tạo ra vật mới mà nó được thể hiện bằng công việc đã thực hiện xong như sửa chữa tài sản… hoặc không được vật chất hóa, như dịch vụ tư vấn pháp lí, gửi giữ, vận tải… Dịch vụ không trực tiếp tạo ra vật chất nhưng tạo tiền đề cho quá trình sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho các chủ thể và xã hội. Tỉ lệ giá trị dịch vụ trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng theo đà tăng trưởng của nền kinh tế.

- Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo

Con người không chỉ tạo ra của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của mình mà còn tạo ra các giá trị tinh thần, các sản phẩm trí tuệ để phục vụ nhu cầu tinh thần cũng như phục vụ cho quá trình sản xuất vật chất. Khoa học, kĩ thuật và công nghệ là thành tố của lực lượng sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và là động lực quan trọng của sản xuất xã hội. Lao động sáng tạo là lao động đặc biệt và kết quả của quá trình sáng tạo này là những “sản phẩm trí tuệ”, là khách thể trong các quan hệ về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp. Sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng:

- Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học… Đây là những hình thức biểu hiện kết quả của quá trình sáng tạo và chúng được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau như viết, nói hay bằng các phương tiện kĩ thuật…

- Các đối tượng của sở hữu công nghiệp là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp… Những đối tượng này chỉ được bảo vệ khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận chúng là đối tượng của sở hữu công nghiệp.

- Các giá trị nhân thân

Các giá trị nhân thân là khách thể trong các quyền nhân thân của công dân, tổ chức. Bảo vệ quyền nhân thân là một trong những nguyên tắc được ghi nhận trong BLDS. Các quyền nhân thân của cá nhân được Nhà nước bảo hộ ngày càng mở rộng do sự phát triển của xã hội. Quyền nhân thân như là một bộ phận cấu thành của quyền con người như danh dự, nhân phẩm, uy tín, tên gọi, quốc tịch, hình ảnh, bí mật đời tư… [từ Điều 24 đến Điều 51 BLDS năm 2005]. Về nguyên tắc chung, các quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể dịch chuyển được trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Quyền sử dụng đất

Đây là một loại tài sản đặc biệt của Nhà nước. Trong khi pháp luật quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí” thì quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, để lại thừa kế… và Nhà nước công nhận các quyền của người sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được pháp luật quy định là một quyền dân sự và có thể được chuyển giao trong lưu thông dân sự, kinh tế. Pháp luật đất đai quy định người sử dụng đất có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, cho thuê lại, góp vốn, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất là đối tượng trong các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và là di sản trong việc thừa kế quyền sử dụng đất.

* Nội dung

Mọi quan hệ pháp luật đều là mối liên hệ pháp lí giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó được thể hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Vì vậy, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào các quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia tạo thành mối liên hệ biện chứng, mâu thuẫn và thống nhất trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Không có quyền của một bên thì cũng không có nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trong những quan hệ đơn giản, có thể dễ dàng xác định trong đó một bên chỉ có quyền và một bên chỉ có nghĩa vụ [người cho vay và người vay tài sản…]. Nhưng thông thường, các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ phức tạp, trong đó các bên có quyền đồng thời có nghĩa vụ với nhau [trong quan hệ mua bán, cho thuê tài sản…].

- Quyền dân sự

Theo quy định của pháp luật, quyền dân sự là cách xử sự được phép của người có quyền năng.

Quyền dân sự của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể khác nhau thì có nội dung khác nhau [những xử sự khác nhau phù hợp với nội dung của quan hệ đó]. Chủ thể quyền trong các quan hệ dân sự có thể thực hiện những hành vi khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của quyền năng đó như chủ sở hữu có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định… Thông qua hành vi của mình thoả mãn quyền của mình hoặc quyền yêu cầu người khác [người có nghĩa vụ] thực hiện các hành vi nhất định [trả tiền, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc…]. Chủ sở hữu có thể thực hiện quyền của mình thông qua hành vi của người khác [uỷ quyền].

Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép [tự bảo vệ, các biện pháp tác động…] hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự của mình khi quyền đó bị xâm hại. Trong khoa học pháp lí tồn tại khái niệm quyền chủ quan và quyền khách quan. Quyền khách quan là quyền dân sự được pháp luật quy định cho các chủ thể, là nội dung năng lực pháp luật của chủ thể [khả năng có thể có của chủ thể]. Quyền chủ quan là quyền dân sự của chủ thể trong một quan hệ dân sự cụ thể đã được xác lập. Quyền chủ quan phải phù hợp với quyền khách quan mà pháp luật đã quy định.

- Nghĩa vụ dân sự

Là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ. Cách xử sự của các chủ thể cũng rất khác nhau tùy theo từng quan hệ dân sự cụ thể. Trong các quy phạm pháp luật dân sự, các quy phạm tùy nghi cho phép các chủ thể lựa chọn cách thực hiện khi tham gia vào quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt của mình. Các quy phạm mệnh lệnh dưới dạng “cấm không được làm” hoặc “phải làm” có một ý nghĩa đặc biệt. Từ các quy phạm này, phát sinh nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Những nghĩa vụ dạng này do pháp luật quy định cho tất cả các bên tham gia vào quan hệ dân sự không chỉ có ý nghĩa đối với các bên tham gia mà đó còn là nghĩa vụ của các chủ thể và có ý nghĩa đối với Nhà nước, đối với xã hội.

Thông thường, trong các quan hệ dân sự, nghĩa vụ của một chủ thể tương ứng với quyền của chủ thể khác – những chủ thể xác định. Người có nghĩa vụ có thể phải thực hiện những hành vi tích cực dưới dạng hành động [như trả tiền, giao vật trong mua bán; thực hiện công việc trong dịch vụ, gia công…]. Trong một số trường hợp, nội dung của quan hệ pháp luật quy định người có nghĩa vụ có thể lựa chọn cách thức xử sự có lợi nhất cho họ. [Ví dụ: Để bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại gây ra, người có nghĩa vụ có thể bồi thường bằng tiền hoặc hiện vật hay sửa chữa đồ vật bị hư hỏng]. Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ một cách tự nguyện sẽ bị “buộc” phải thực hiện đúng nghĩa vụ đó. Ngoài ra, nếu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

3. Phân loại quan hệ pháp luật dân sự

Có mấy loại quan hệ pháp luật dân sự? dựa vào quyền và nghĩa vụ của chủ và khách thể trong quan hệ dân sự, theo đó sẽ có các loại quan hệ pháp luật dân sự sau đây.

Căn cứ vào khách thể của quan hệ pháp luật dân sự

Căn cứ vào khách thể của quan hệ pháp luật dân sự [nhóm điều chỉnh của quan hệ pháp luật dân sự]có thể chia quan hệ pháp luật dân sự thành hai loại:

* Quan hệ nhân thân

Quan hệ nhân thân là các quan hệ dân sự liên quan đến các vấn đề nhân thân và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho người khác trừ trường hợp pháp luật cho phép. Ví dụ: đứng tên tác giả trong một tác phẩm, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, tên gọi….

* Quan hệ tài sản

Quan hệ tài sản là quan hệ pháp luật dân sự luôn gắn với một tài sản nhất định hoặc việc chuyển dịch một tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Ví dụ như quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay quan hệ thừa kế…

Do đặc trưng của hai loại quan hệ này nên các biện pháp được áp dụng để bảo vệ các quan hệ pháp luật khi có sự vi phạm cũng khác nhau. Khi quan hệ pháp luật dân sự về tài sản bị xâm phạm thì đòi hỏi áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản để bảo vệ quyền tài sản của người bị xâm phạm. Khi quan hệ pháp luật dân sự về nhân thân bị xâm phạm thì chế tài không mang tính chất tài sản mà thường áp dụng các hình thức như buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai… Căn cứ vào tính xác định của chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ Dựa vào tiêu chí này, quan hệ pháp luật dân sự được chia thành hai loại:

* Quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối

Trong quan hệ này, chủ thể quyền được xác định, còn các chủ `thể khác đều là chủ thể nghĩa vụ. Nghĩa vụ của các chủ thể nghĩa vụ được biểu hiện là dạng nghĩa vụ không hành động [tức là không thực hiện bất cứ hoạt động nào xâm phạm tới quyền của chủ thể quyền]. Thông thường, các loại quyền tuyệt đối được pháp luật ghi nhận mà không phải do các bên thỏa thuận.

* Quan hệ pháp luật dân sự tương đối

Quan hệ pháp luật dân sự tương đối là quan hệ pháp luật xác định cả chủ thể quyền và nghĩa vụ. Trong loại quan hệ này, nội dung quyền và nghĩa vụ thông thường do các bên thỏa thuận dựa trên các quy định của pháp luật. Nội dung các thỏa thuận này các nhà làm luật không thể quy định chi tiết mà chỉ đưa ra các quy định khung để các chủ thể dựa trên đó thỏa thuận.

Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền dân sự

Để thỏa mãn quyền của mình, chủ thể quan hệ pháp luật dân sự có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau, có thể trực tiếp thực hiện quyền, có thể thực hiện quyền thông qua hành vi của chủ thể khác. Dựa trên cơ sở này, quan hệ pháp luật dân sự được phân thành 2 loại:

* Quan hệ pháp luật dân sự vật quyền

Đây là quan hệ dân sự mà trong đó quyền của chủ thể bên này được thực hiện thông qua hành vi trực tiếp của chủ thể mang quyền. Ví dụ: chủ sở hữu muốn thỏa mãn quyền của mình sẽ thực hiện hành vi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.

* Quan hệ pháp luật dân sự trái quyền

Quan hệ dân sự trái quyền là những quan hệ mà trong đó quyền của chủ thể bên này có được thực hiện hay không hoàn toàn thông qua hành vi mang tính nghĩa vụ của chủ thể bên kia. Ví dụ như: hành vi trả tiền của bên mua đối với bên bán trong quan hệ mua bán thực hiện quyền được nhận khoản tiền mua bán hàng hóa của người bán. Khi nào phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.

Có thể thấy, căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự chính là sự kiện pháp lý. Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong đời sống thực tế mà đã được pháp luật dự liệu các hậu quả pháp lý nhất định [có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.

Một sự kiện thực tế có thể làm phát sinh thay đổi, chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật dân sự. Ví dụ như: A đâm chết B, hành vi trái pháp luật của A làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, làm phát sinh quan hệ thừa kế…. Phát sinh quan hệ pháp luật dân sự

Trên đây là phần chia sẻ tìm hiểu khái niện quan hệ pháp luật dân sự và nội dung, quy định liên quan. Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được trích dẫn trong tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Để được tư vấn, lắng nghe ý kiến tư vấn chính xác nhất từ Luật sư DHLaw, quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Hotline 0909854850 để nhận được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Chủ Đề