Phân tích tác động của chính sách cổ tức tối giá trị công ty cổ phần

Chính sách cổ tức của CTCP

Trong CTCP, chính sách cổ tức phải được sử dụng như một công cụ điều tiết giữa lợi nhuận phân phối và lợi nhuận giữ lại sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu vốn đầu tư và phát triển của doanh nghiệp vừa đáp ứng được đòi hỏi của cổ đông để có thể thu hút vốn của nhà đầu tư. Mức độ quan tâm của những nhà đầu tư dành cho chính sách cổ tức là khác nhau, vì thế một chính sách cổ tức khó có thể đồng thời đáp ứng được tất cả yêu cầu của các cổ đông. Vậy chính sách cổ tức trong CTCP được quy định như thế nào? Kính mời quý khách hàng theo dõi bài viết dưới đây của Luật PhamLaw chúng tôi.

1. Khái niệm cổ tức

Theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020, cổ tức [Dividends] được hiểu là khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác.

Về nguyên tắc thì mục đích cơ bản của bất kỳ công việc kinh doanh nào là nhằm tạo ra lợi nhuận cho nhà đầu tư và cổ tức là cách thức quan trọng nhất để việc kinh doanh thực hiện được nhiệm vụ này. Khi công việc kinh doanh của công ty tạo ra lợi nhuận, một phần lợi nhuận được tái đầu tư vào kinh doanh của công ty và lập các quỹ dự phòng, phần lợi nhuận còn lại được chi trả cho các cổ đông [gọi là cổ tức].

2. Khái niệm chính sách cổ tức

Chính sách cổ tức [Dividend policy] là một chính sách ấn định mức lợi nhuận sau thuế của công ty sẽ được đem ra phân phối như thế nào, bao nhiêu phần trăm được giữ lại để tái đầu tư và bao nhiêu dùng để chi trả cổ tức cho các cổ đông. Vì thế, chính sách cổ tức sẽ có ảnh hưởng đến số lượng vốn cổ phần trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp [thông qua lợi nhuận giữ lại] và chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thông thường, chính sách cổ tức của một công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:

– Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị.

– Số cổ phiếu ưu đãi chiếm trong tổng số vốn cổ phần.

– Chính sách tài chính của năm tới, trong đó xem xét khả năng tự tài trợ.

– Giá trị thị trường của cổ phiếu công ty.

Do đó, để có thể đưa ra được một chính sách cổ tức phù hợp với tình hình tài chính và những mục tiêu phát triển khác nhau của công ty, giám đốc tài chính phải nghiên cứu kỹ các yếu tố có ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của đơn vị.

3. Các chính sách chi trả cổ tức

3.1. Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động

Chính sách này xác nhận rằng một doanh nghiệp nên giữ lại lợi nhuận khi doanh nghiệp có các cơ hội đầu tư hứa hẹn các tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi mong đợi mà các cổ đông đòi hỏi.

Ngoài ra, nguyên lý giữ lại lợi nhuận thụ động cũng đề xuất là các công ty “tăng trưởng” thường có tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hơn các công ty đang trong giai đoạn sung mãn [bão hòa]. Nói cách khác, chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động ngụ ý việc chi trả cổ tức của doanh nghiệp là nên thay đổi từ năm này sang năm khác tùy thuộc vào các cơ hội đầu tư có sẵn.

Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp thường cố gắng duy trì một mức cổ tức ổn định theo thời gian. Điều này không có nghĩa là các doanh nghiệp đã bỏ qua nguyên lý về chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động, mà bởi vì cổ tức có thể được duy trì ổn định hàng năm theo hai cách:

Thứ nhất, doanh nghiệp có thể giữ lại lợi nhuận với tỷ lệ khá cao trong những năm có nhu cầu vốn cao. Nếu đơn vị tiếp tục tăng trưởng, các giám đốc có thể tiếp tục thực hiện chiến lược này mà không nhất thiết phải giảm cổ tức.

Thứ hai, doanh nghiệp có thể đi vay vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư và do đó tăng tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần một cách tạm thời để tránh phải giảm cổ tức. Nếu doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư tốt trong suốt một năm nào đó thì chính sách vay nợ sẽ thích hợp hơn so với cắt giảm cổ tức. Sau đó, trong những năm tiếp theo, doanh nghiệp cần giữ lại lợi nhuận để đẩy tỷ số nợ trên vốn cổ phần về lại mức thích hợp.

3.2. Chính sách cổ tức tiền mặt ổn định

Hầu hết các doanh nghiệp và cổ đông đều thích chính sách cổ tức tương đối ổn định. Tính ổn định được đặc trưng bằng một sự miễn cưỡng trong việc giảm lượng tiền mặt chi trả cổ tức từ kỳ này sang kỳ khác. Tương tự, những gia tăng trong tỷ lệ cổ tức cũng thường bị trì hoãn cho đến khi các giám đốc tài chính công bố rằng các khoản lợi nhuận trong tương lai đủ cao đến mức độ thỏa mãn cổ tức lớn hơn. Như vậy, tỷ lệ cổ tức có khuynh hướng đi theo sau một gia tăng trong lợi nhuận và đồng thời cũng thường trì hoãn lại trong một chừng mực nào đó.

3.3. Các chính sách chi trả cổ tức khác

Ngoài chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động và cổ tức tiền mặt cố định, các CTCP còn có thể sử dụng một số các chính sách cổ tức khác như:

– Chính sách cổ tức có tỷ lệ chi trả không đổi. Nếu lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi nhiều từ năm này sang năm khác thì cổ tức cũng có thể dao động theo.

– Chính sách chi trả một cổ tức nhỏ hàng quý cộng với cổ tức thưởng thêm vào cuối năm. Chính sách này đặc biệt thích hợp cho những doanh nghiệp có lợi nhuận hoặc nhu cầu tiền mặt biến động giữa năm này với năm khác, hoặc cả hai. Ngay cả khi doanh nghiệp có mức lợi nhuận thấp, các nhà đầu tư vẫn có thể trông cậy vào một mức chi trả cổ tức đều đặn của họ; còn khi lợi nhuận cao và không có nhu cầu sử dụng ngay nguồn tiền dôi ra này, các doanh nghiệp sẽ công bố một mức cổ tức thưởng cuối năm. Chính sách này giúp ban điều hành có thể linh hoạt giữ lại lợi nhuận khi cần mà vẫn thỏa mãn được nhu cầu của các nhà đầu tư là muốn nhận được một mức cổ tức “bảo đảm”.

Như vậy, có rất nhiều chính sách cổ tức để CTCP lựa chọn sao cho phù hợp với dòng tiền, lưu lượng tiền tệ và nhu cầu đầu tư của đơn vị. Mặc dù được xếp ưu tiên thấp hơn chính sách tài trợ và chính sách đầu tư, nhưng việc chọn chính sách cổ tức cũng đòi hỏi được xem xét cẩn thận bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cổ đông và tới sự phát triển của công ty. Sau khi đã thống nhất chọn được chính sách chi trả cổ tức, việc tiếp theo mà Đại hội cổ đông cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp phải cân nhắc đó là: lựa chọn phương thức chi trả cổ tức.

4. Ý nghĩa của chính sách cổ tức

– Chính sách cổ tức ảnh hưởng quan trọng đến tỉ lệ tăng trưởng thu nhập của cổ tức trong tương lai của cổ đông. 

Nếu như công ty tái đầu tư lợi nhuận nhiều, trong khi vẫn duy trì được mức sinh lời trên một đồng vốn sẽ gia tăng thu nhập và cổ tức cho cổ đông hiện hành và ngược lại.

– Chính sách cổ tức tác động trực tiếp đến giá trị tài sản thực tế của cổ đông. 

Một mặt cổ tức là thu nhập ở hiện tại và chắc chắn, mặt khác chính sách cổ tức có thể giảm thiểu các khoản chi phí khi thu nhập về đến tay cổ đông, vì thu nhập thực tế có thể bị sụt giảm do các yếu tố như thuế thu nhập, chi phí giao dịch.

– Thông qua việc trả cổ tức còn thể hiện dấu hiệu thông tin về hiệu quả hoạt động của công ty ra ngoài thị trường, đến các nhà đầu tư khác.

Khi đó, nó sẽ tác động đến mối quan hệ giữa cung và cầu về cổ phiếu của công ty. Vì thế tình hình tăng giảm cổ tức của mỗi công ty đều có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu của công ty trên thị trường.

Với những lí do trên đòi hỏi nhà quản trị công ty phải cân nhắc xem xét trong việc hoạch định chính sách cổ tức một cách hợp lí, phù hợp với tình hình và xu thế phát triển của công ty.

Trên đây là bài viết về Chính sách cổ tức CTCP? Nếu bạn còn vướng mắc hoặc muốn được hỗ trợ tư vấn, vui lòng kết nối đến tổng đài tư vấn của chúng tôi. Hỗ trợ dịch vụ qua các đầu số hotline 097 393 8866 hoặc 091 611 0508.

Xem thêm:

Chính sách cổ tức luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư khi đưa ra quyết định đầu, tuy nhiên sự tác động của chính sách này đến giá cổ phiếu như thế nào, đến nay vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích chính sách cổ tức, tương quan chính sách cổ tức với giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bài viết phần nào lý giải vấn đề trên và đề xuất các gợi ý cho doanh nghiệp lựa chọn chính sách cổ tức hợp lý.

Chính sách cổ tức: Nhìn ở góc độ lý thuyết

Việc nghiên cứu tác động của chính sách cổ tức lên giá cổ phiếu trên thị trường hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và có hai luồng ý kiến trái ngược nhau. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, chính sách cổ tức không làm thay đổi giá trị công ty, do đó không làm ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Lập luận của những nghiên cứu này dựa trên lý thuyết cổ tức không liên quan đến giá trị công ty của Miller & Modigliani [1961]. Tuy nhiên, trong thực tế, các nhà quản lý công ty lại thường chỉ chuyển đến cổ đông những thông tin khả quan về kết quả hoạt động kinh doanh và giữ lại những thông tin xấu cho đến khi có các quy định hoặc những giới hạn tài chính khiến họ phải công bố các thông tin đó ra bên ngoài. Điều này thể hiện qua các nghiên cứu của: Ball và cộng sự [1979], Baker và cộng sự [1985] và Baker & Powel [1999]. Partington [1985] cũng đưa ra kết luận về việc các nhà quản lý ở Úc đã xem việc chi trả cổ tức cho cổ đông là một kênh hỗ trợ giá cho cổ phiếu.

Quan điểm thứ hai cho rằng, có sự liên quan giữa chính sách cổ tức và giá trị doanh nghiệp [DN], bao gồm cả việc làm tăng hoặc làm giảm giá trị DN, dẫn đến thay đổi và gây ra dao động giá cổ phiếu [Gordon, 1959; Merton and Rock, 1985; Miller và Scholes, 1978] Nhiều nghiên cứu thực nghiệm chứng minh rằng, chính sách cổ tức có ảnh hưởng đến giá trị thị trường [Kanwal Iqbal Khan, Aamir and Arslan, 2009]… Bằng việc áp dụng phân tích hồi quy, Amihud và Murgia [1997] đã nghiên cứu tác động của việc công bố cổ tức và thu nhập tại thị trường Đức để kiểm tra sự biến động giá cả có liên quan đến cổ tức và thu nhập, dựa trên mẫu gồm 200 công ty trong giai đoạn 1988-1992. Họ thấy rằng những khoản cổ tức và thu nhập bất thường có thể giải thích cho sự biến động giá cổ phiếu. Mặc dù công bố thu nhập có trước công bố chia cổ tức ở Đức nhưng kết quả của Amihud và Murgia ngụ ý rằng, thông báo chia cổ tức là tín hiệu lớn hơn so với thông báo thu nhập trước đó về thu nhập hiện tại. Dyl và Weigand [1993] đã cung cấp bằng chứng chỉ ra rằng cổ tức bằng tiền mặt cho thấy, lợi nhuận của công ty và dòng tiền sẽ ít rủi ro. Nghĩa là, có một mối quan hệ thống kê có ý nghĩa mạnh mẽ giữa chính sách cổ tức và giá trị thị trường của công ty.

Kanwal, Arslan, Nasir & Maryam Khan [2011] thông qua mô hình hiệu ứng cố định và ngẫu nhiên đã giải thích tác động của chính sách cổ tức lên giá chứng khoán và đưa đến kết luận: Cổ tức, thu nhập trên mỗi cổ phần, thu nhập trên vốn chủ sở hữu và lợi nhuận sau thuế tương quan dương với giá cổ phiếu, trong khi lợi nhuận giữ lại có tương quan âm với giá cổ phiếu và giải thích đáng kể những thay đổi trong giá cổ phiếu. Những kết quả này, nhấn mạnh chính sách cổ tức đóng vai trò quan trọng vì chính sách cổ tức cung cấp tín hiệu về sự thành công của công ty.

Các nghiên cứu trên đều cho rằng, lý thuyết sự độc lập của cổ tức là không thực tế và chính sách cổ tức có ảnh hưởng đến giá trị thị trường của DN.

Thực trạng tại Việt Nam

Ở Việt Nam, khi kiểm tra mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và giá cổ phiếu, ta cần xem xét từ quan điểm của ban quản trị và của các cổ đông. Sự khác biệt của hai quan điểm trên về chính sách cổ tức sẽ làm ảnh hưởng đến giá trị thị trường của công ty. Với bài viết nghiên cứu thực tiễn tại Việt Nam, tác giả xin đề xuất sử dụng mô hình của Kanwal Iqbal Khan & Aamir & Arslan & Nasir & Maryam Iqbal Khan [2011]:

Pi = αo + α1SDi + α2RRi + α3PATi + α4EPSi + α5ROEi + €i

Trong đó, giá Pi được dùng là biến phụ thuộc. Cổ tức mỗi cổ phần [SDi], tỷ lệ lợi nhuận giữ lại [RRi], thu nhập mỗi cổ phần [EPSi], lợi nhuận sau thuế [PATi], lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu [ROEi] là các biến độc lập.

Chính sách cổ tức của các DN bị ảnh hưởng do những biến động của nền kinh tế. Các DN chủ yếu có xu hướng chi trả cổ tức theo chính sách tiền mặt ổn định hoặc theo chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động.

Theo thống kê mô tả của các biến có ảnh hưởng đến giá thị trường chứng khoán của những công ty được niêm yết trên sàn HOSE trong giai đoạn 2008- 2013 cho thấy: Giá thị trường cổ phiếu là biến phụ thuộc trong phạm vi mô hình từ 3.3 đến 87.0 với giá trị trung bình 23.6595, độ lệch chuẩn 16.34729. Các biến giải thích cho mô hình là cổ tức mỗi cổ phần, tỷ lệ lợi nhuận giữ lại, lợi nhuận sau thuế, thu nhập mỗi cổ phần và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.

Giá cổ phiếu có mối tương quan dương với tất cả các biến giải thích. Mối tương quan dương chỉ ra rằng, bất kì sự tăng hoặc giảm nào trong các biến giải thích là nguyên nhân tăng hoặc giảm trong giá cổ phiếu. Hơn nữa, kết quả còn chỉ ra rằng tương quan giữa giá cổ phiếu và cổ tức cổ phần là 0.25, giữa giá cổ phiếu và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại là 0.066, giữa giá cổ phiếu và lợi nhuận sau thuế là 0.299, giữa giá cổ phiếu và thu nhập mỗi cổ phần là 0.369, giữa giá cổ phiếu và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu là 0.233. Điều đó có nghĩa là, các biến đều có một tác động nhất định lên giá cổ phiếu.

Cổ tức cổ phần cũng có mối tương quan dương với các biến giải thích khác. Mối tương quan và có ý nghĩa giữa cổ tức cổ phần và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại là 0.034, giữa cổ tức cổ phần và lợi nhuận sau thuế là 0.018; và mối tương quan dương nhưng không có ý nghĩa giữa cổ tức cổ phần và thu nhập mỗi cổ phần là 0.469, giữa cổ tức cổ phần và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu là 0.435. Có tồn tại mối tương quan dương giữa tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và lợi nhuận sau thuế, thu nhập mỗi cổ phần, tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu nhưng đều không có ý nghĩa lần lượt là 0.066, 0.137, 0.138. Kết quả cũng cho thấy, mối tương quan dương giữa lợi nhuận sau thuế với cổ tức mỗi cổ phần và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu là: 0.19, 0.3. Cuối cùng, giữa tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu và thu nhập mỗi cổ phần có mối tương quan dương, không có ý nghĩa là 0.86.

Kết quả phân tích hồi quy như sau:

P = 1 4 . 8 0 4 + 0 . 0 5 9 4 * R R + 0 . 0 0 2 4 * S D + [ 6 . 0 2 E – 17]*PAT+0.0033*EPS- 57.1983*ROE

Kết quả cho thấy, cổ tức mỗi cổ phần có mối tương quan dương với giá cổ phiếu. kết quả này liên quan đến việc các nhà đầu tư xem việc chia cổ tức cao như một dấu hiệu lợi nhuận cao hơn trong tương lai. Các cổ đông sẽ nhận được lợi tức cổ tức nhiều hơn trong tương lai khi công ty bắt đầu chi trả cổ tức, giá cổ phiếu sẽ tăng lên. Mặt khác, mối tương quan âm giữa giá chứng khoán và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu cho thấy, các nhà quản lý không sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các cổ đông và không thu được nhiều hơn từ nguồn đầu tư đó, do đó sẽ tác động tiêu cực làm giảm giá cổ phiếu.

Phương pháp hiệu ứng cố định được sử dụng để kiểm soát tất cả các đặc tính ổn định của công ty có trong nghiên cứu trong khoảng thời gian cố định. Phương pháp này cung cấp kết quả thống kê tốt hơn bằng cách loại bỏ sự chênh lệch từ dữ liệu và chỉ giải thích những biến đổi của mẫu. Phương pháp hiệu ứng ngẫu nhiên được áp dụng khi các đặc điểm của mẫu khác nhau. Do đặc điểm của các công ty khác nhau về quy mô, nguồn vốn, bản chất kinh doanh, thu nhập. Vì vậy, phương pháp này là thích hợp để giải thích sự khác biệt giữa các công ty.

Kết quả phân tích theo mô hình hiệu ứng cố định:

P=14.8919+0.0769*RR+0.00215*SD+6.13E- 17*PAT+0.0034*EPS-57.7749*ROE

Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên:

P = 1 7 . 8 2 7 7 – 0 . 0 1 1 6 * R R + 0 . 0 0 1 0 * S D + 7 . 1 5 E – 17*PAT+0.00113*EPS-18.0597*ROE

Cổ tức mỗi cổ phần và lợi nhuận sau thuế đều có mối tương quan dương với giá cổ phiếu trong cả 2 mô hình hiệu ứng cố định và ngẫu nhiên. Lợi nhuận sau thuế tác động đáng kể lên giá cổ phiếu. Các cổ đông chỉ tập trung vào số tiền lợi nhuận, họ chỉ quan tâm đến số tiền cổ tức chi trả cho mình. Đó có thể là số tiền được chi trả từ lợi nhuận hiện tại hoặc của năm trước.

Qua phân tích thực trạng chi trả cổ tức của các DN Việt nam trong thời gian qua cho thấy, chính sách cổ tức của các DN bị ảnh hưởng do những biến động của nền kinh tế. Các DN chủ yếu có xu hướng chi trả cổ tức theo chính sách tiền mặt ổn định hoặc theo chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động. Đặc biệt với việc thị trường ảm đạm kể từ giữa năm 2010 đến hết năm 2011, đã ảnh hưởng mạnh tới kết quả cũng như hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ví dụ, Tổng Công ty cổ phần dịch vụ khoan và dịch vụ dầu khí [PVD] đã thực hiện chia cổ tức bằng tiền mặt là 25% tương đương với 320,42 tỷ đồng vào tháng 12 năm 2008; lợi nhuận chưa phân phối là 24,8% tương đương với 327,83 tỷ đồng được giữ lại. Đến năm 2010, Đại hội đồng cổ đông đã thông qua mức cổ tức năm 2010 với tỷ lệ 20% trên mệnh giá bằng tiền. Và sang năm 2011, 2012, PVD chia cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 11% và 49% lợi nhuận được PVD giữ lại dưới hình thức lợi nhuận chưa phân phối để hỗ trợ nguồn vốn cho nhu cầu đầu tư của PVD trong năm 2013. Năm 2013 cổ tức chi trả cho các cổ đông là 10%.

Từ những nghiên cứu trên có thể thấy, chính sách cổ tức là một trong những nhân tố lớn tác động đến giá trị DN trong ngắn hạn, và giá trị DN trong dài hạn, mặc dù cách thức tác động đối với mỗi DN và trong mỗi thời kỳ là khác nhau.

Một số đề xuất, kiến nghị

Công ty có nên trả cổ tức hay không và trả với tỷ lệ như thế nào vẫn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi. Kết hợp các kinh nghiệm thực tế và một số lý thuyết nêu ra, trước khi quyết định về chính sách cổ tức của mình, các công ty nên cân nhắc các yếu tố sau:

Một là, cơ hội đầu tư trong tương lai: Cân nhắc tới cơ hội đầu tư trong dài hạn khi quyết định tỷ lệ trả cổ tức sẽ giúp công ty có được sự chủ động về tài chính và giảm các chi phí do việc phải huy động nguồn vốn bên ngoài. Một công ty đang có tốc độ tăng trưởng cao với nhiều dự án hấp dẫn nên trả mức cổ tức thấp hơn một công ty không có nhiều cơ hội đầu tư.

Hai là, các rủi ro kinh doanh: Vì việc cắt giảm cổ tức thường gây tác động tiêu cực lên giá cổ phiếu, các công ty phải đưa ra một mức cổ tức mà họ có thể duy trì trong tương lai. Vì thế, một công ty với thu nhập không ổn định hoặc theo chu kỳ nên đặt một tỷ lệ trả cổ tức thấp để tránh những phiền phức khi phải cắt giảm cổ tức.

Ba là, yêu cầu của cổ đông của công ty: Chính sách cổ tức cần phù hợp với yêu cầu của cổ đông. Nếu cổ đông công ty là các cá nhân có mức thuế thu nhập cao và mong muốn được nhận lãi vốn thì việc trả cổ tức cao sẽ không có ý nghĩa đối với họ.

Bốn là, tính thanh khoản và khả năng huy động vốn của công ty: Khối lượng tài sản có tính thanh khoản cao và khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính cũng là các yếu tố quyết định mức chi trả cổ tức của công ty. Một công ty có tốc độ tăng trưởng nhanh với thu nhập cao có thể không muốn trả mức cổ tức cao nếu phần lớn vốn của công ty được đầu tư vào các tài sản cố định và các tài sản lưu động có tính thanh khoản thấp như hàng tồn kho và tài khoản phải thu. Khả năng huy động vốn trên thị trường càng thấp thì càng khiến công ty muốn giữ lại thu nhập để tái đầu tư thay vì trả cổ tức cho cổ đông.

Năm là, khả năng mất quyền kiểm soát công ty: Nếu các nhà quản lý công ty e ngại về khả năng mất quyền kiểm soát công ty thì họ sẽ rất ngại phát hành thêm cổ phiếu mới. Trong trường hợp này thì giữ lại thu nhập để phục vụ nhu cầu đầu tư và do đó, duy trì mức cổ tức thấp, là chính sách hợp lý; đặc biệt khi tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần của công ty đã ở mức tối đa cho phép.

Tài liệu tham khảo:

1. Asquith, P., & Mullins, D. W. [1986]. The Impact of Initiating Dividend Payments on Shareholders’ Wealth. Journal of Business , 1 [46], 77-96;

2. Black, Fischer & Scholes, Myron, 1974. “The effects of dividend yield and dividend policy on common stock prices and returns,” Journal of Financial Economics, Elsevier, vol. 1[1], pages 1-22, May;

3. Chen, D.-H., Huang, H.-H. L., & Cheng, T. [2009]. The Announcement Effect of Cash Dividend Changes on Share Prices: An Empirical Analysis of China. The Chinese Economy , 42[1], 62-85;

4. David J. Denis, Igor Osobov, “Why Do Firms Pay Dividends? International Evidence on the Determinants of Dividend Policy”, Published by Elsevier, Journal of Financial Economics, vol. 89, no. 1, pp. 62-82, 2008;

5. Few Say Ling, Mohd Lukman Abdull Mutalip, Aidil Rizal Shahrin, Mohd Said Othman, “Dividend Policy: Evidence from Public Listed Companies in Malaysia”, World Business Institute, International Review of Business Research Papers.

Video liên quan

Chủ Đề