Nội dung cơ bản của học thuyết Monroe

Học thuyết Monroe là một chính sách của Hoa Kỳ được trình bày vào ngày 2, tháng 12 năm 1823 bởi tổng thống Mỹ James Monroe trước quốc hội. Theo đó những nỗ lực trong tương lai của các nước Âu châu để lập thuộc địa hay can thiệp vào nội bộ của các nước ở Bắc hay Nam Mỹ sẽ bị xem là những hành động xâm lược, và như vậy đòi hỏi sự can thiệp của nước Hoa kỳ.[1] Học thuyết này cũng chú giải là Hoa kỳ không những sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hiện thời của các nước Âu châu mà cũng sẽ không xía vào nội bộ các nước Âu châu. Học thuyết này được đưa ra vào lúc hầu hết các thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tại châu Mỹ Latin đã giành được độc lập ngoại trừ Cuba và Puerto Rico. Hoa kỳ, với sự đồng ý của Vương quốc Anh, muốn bảo đảm là sẽ không có cường quốc Âu châu nào can thiệp vào các vấn đề Mỹ châu.[2] Dự định và tác động của học thuyết này kéo dài hơn 100 năm với vài sự thay đổi nhỏ. Mục đích nguyên thủy của nó là để cho các quốc gia châu Mỹ Latin mới giành được độc lập không bị can thiệp bởi các nước Âu châu, tránh tình trạng Mỹ châu trở thành chiến trường của các cường quốc Âu châu. 1848 dưới thời tổng thống James K. Polk và 1870 dưới thời tổng thống Ulysses S. Grant học thuyết này mở rộng thêm việc cấm chuyển nhượng thuộc địa cho một cường quốc khác.
Tuy nhiên, mãi cho đến năm 1853 từ "Học thuyết Monroe" mới được ghi vào từ điển Mỹ.[3]

Tổng thống Hoa kỳ James Monroe

Bộ trưởng ngoại giao John Quincy Adams, Tác giả của Học thuyết Monroe

Thời kỳ tổng thống Monroe từ năm 1817 cho tới 1825 là lúc nước Mỹ trong nội bộ đã ổn định và nền kinh tế phát triển mạnh. Chỉ vài năm trước đó khi nước Hoa kỳ thêm được vùng thuộc địa Louisiana của Pháp vào năm [1803] và vùng Florida của Tây Ban Nha năm [1819] lãnh thổ mở rộng hầu như gần gấp đôi, trong trường hợp đầu tiên chính Monroe là người điều đình tại Paris. Về mặt khác chính Hoa Kỳ cũng đã gây chiến với Vương quốc Anh [1812 – 1814], trong đó thủ đô Washington, D. C. bị đốt cháy và dự định chiếm đóng Canada của Hoa Kỳ đã thất bại. Đặc biệt Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ bị áp lực lớn: Các nền quân chủ chuyên chế Âu châu sau những cuộc xáo động trong những thập niên vừa qua [kể từ cách mạng Pháp năm 1789] đã giành lại quyền lực. Với sự khôi phục nền quân chủ Bourbon ở Pháp và những hành động của Liên minh Thần thánh [Holy Alliance: bao gồm Nga, Áo, Phổ] chống lại những tư tưởng và cơ sở Cộng hòa và cấp tiến khiến cho phong trào Cộng hòa trên thế giới bị đẩy lùi trở lại.
Trong khi đó tại Tây Ban Nha, vua Ferdinand VII. vào năm 1820 bị áp lực của phe nổi dậy đã phải tuyên bố một thể chế quân chủ lập hiến theo hiến pháp mà đã có từ năm 1812 [Spanish Constitution of 1812]. Tuy nhiên chính thể cộng hòa này chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Liên minh Thần thánh lo sợ các cuộc cách mạng tương tự sẽ xảy ra tại nước mình, làm áp lực với chính thể quân chủ Pháp, gởi quân đội sang Tây Ban Nha. Không được sự ủng hộ của toàn dân vì các linh mục Thiên chúa giáo đứng về phía Bảo hoàng, phe Cách mạng mất thành trì cuối cùng ở Cádiz vào năm 1823.
Vương quốc Anh, phản đối sự xâm lăng của Pháp sang Tây Ban Nha, lo sợ sự thành công của Liên minh Thần thánh sẽ đưa đến những phiêu lưu quân sự của họ tại những thuộc địa cũ của Tây Ban Nha tại Nam Mỹ. Mặc dù Anh không chính thức công nhận sự độc lập của các nước Nam Mỹ, họ có những quyền lợi về kinh tế và những quan hệ thương mãi phát đạt, mà sự can thiệp của Tây Ban Nha và Liên minh Thần thánh có thể làm hư hại.
Một tranh chấp thứ hai trên lục địa Âu châu là cuộc cách mạng của Hy lạp chống lại sự cai trị của Đế quốc Ottoman. Sau khi quân đội Thổ từ năm 1821 tới 1822 đã giành lại được phần lớn lãnh thổ, người Hy lạp vào mùa thu 1822 lại thành công trong việc đánh đuổi lính Thổ. Ngay từ năm 1821 họ đã kêu gọi các cường quốc Âu châu và Hoa kỳ chính thức công nhận chính phủ họ. Mặc dù lời kêu gọi không được đáp ứng, cuộc chiến đấu dành độc lập của người Hy Lạp được phe Cộng hòa và Dân chủ ủng hộ. Ngay ở Mỹ, chính phủ cũng bị làm áp lực, phải giúp đỡ chính phủ Hy lạp mới hay tối thiểu phải công nhận họ.
Trong tình trạng đó Vương quốc Anh, qua các cuộc nói chuyện giữa Ngoại trưởng Anh George Canning và đại sứ Mỹ tại London, ông Richard Rush, vào tháng 8 và tháng 9 năm 1823 đề nghị với Hoa kỳ, cùng nhau lập một liên minh công nhận sự độc lập của các nước Nam Mỹ và để đối phó trong trường hợp các cường quốc Âu châu muốn can thiệp vào. Đây là phản ứng của Canning với tin đồn về dự định của các nước Âu châu lập một hội nghị đối phó với các thuộc địa cũ ở Nam Mỹ của Tây Ban Nha và về các tin, theo đó các đoàn tàu Pháp đang chờ đợi, chở quân lính Tây Ban Nha sang chiếm lại các thuộc địa.

Bởi vì Hoa Kỳ thiếu lực lượng quân đội và hải quân đáng gờm vào lúc đó, học thuyết đã bị quốc tế coi thường.[4] Học thuyết này, tuy nhiên, được vương quốc Anh chấp thuận ngầm, và hải quân hoàng gia Anh đã làm cho nó có hiệu lực, như là một phần của Pax Britannica, mà bắt tôn trọng sự trung lập ở biển cả. Học thuyết này đi cùng với sự phát triển của chính sách Anh tự do kinh tế đối ngược với chủ nghĩa trọng thương. Cách mạng kỹ nghệ ở Anh tìm kiếm các nơi để có thể bán được hàng sản xuất, và nếu các quốc gia châu Mỹ Latin mới giành được độc lập lại trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha một lần nữa, các cửa mở cho nước Anh vào các thị trường những nước này sẽ lại bị chính sách chủ nghĩa trọng thương của Tây Ban Nha đóng lại.[5]

  1. ^ United States Department of State, Basic Readings in U.S. Democracy: The Monroe Doctrine [1823]
  2. ^ Herring, George C., From Colony to Superpower: U.S. Foreign Relations Since 1776, [2008] pp. 153-155
  3. ^ "Merriam Webster's Collegiate Dictionary"
  4. ^ New Encyclopedia Britannica. 8 [ấn bản 15]. Encyclopedia Britannica. tr. 269. ISBN 1-59339-292-3.
  5. ^ Hobson, Rolf. Imperialism at Sea. 163. Brill Academic Publishers. tr. 63. ISBN 978-0-391-04105-9. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2009.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Học_thuyết_Monroe&oldid=68404641”

Tác giả: Lê Thành Lâm

Vào những thập niên đầu của thế kỷ 19, phong trào cách mạng ở Trung và Nam Mỹ nổ ra mạnh mẽ, tư tưởng tự do đã khuấy động nhân dân Mỹ Latinh từ thời các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được độc lập. Và cho đến năm 1822, tất cả các nước trong khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Châu Mỹ – từ Achentina và Chile ở miền Nam tới Mexico ở miền Bắc – đều đã giành được độc lập. Nhân dân Mỹ ngày càng phản đối việc duy trì các thuộc địa của Châu Âu ở Tân Thế giới, họ cũng mong muốn Mỹ tăng cường ảnh hưởng và mở rộng các mối quan hệ trao đổi tới Nam Mỹ. Trước áp lực ngày càng lớn của dư luận, năm 1822, Tổng thống James Monroe đã cho phép công nhận các quốc gia mới ở Mỹ Latinh và nhanh chóng trao đổi công sứ với các quốc gia này. Tổng thống đã công nhận họ là các quốc gia độc lập thực sự, hoàn toàn tách khỏi những mối ràng buộc trước kia với Châu Âu.

Trước tình hình cách mạng đang diễn ra sôi sục, tháng 9 năm 1815, Liên minh Thần thánh gồm Nga, Áo, Phổ đã được thiết lập nhằm bảo vệ những nước này trước các cuộc cách mạng. Với những hoạt động thuộc phạm vi Cựu Thế giới, Liên minh Thần thánh không gây lo lắng cho Hoa Kỳ. Nhưng khi Liên minh này tuyên bố ý định muốn khôi phục các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha và có những dấu hiệu cho thấy việc Nga đang mở rộng sự có mặt của nước này về phía Nam từ Alaska đến Oregon thì người Mỹ bắt đầu lo lắng.

James Monroe [1758 – 1831]
James Monroe sinh ngày 28/4/1758 tại hạt Westmoreland, bang Virginia. Ông là tổng thống thứ 5 của Hoa Kỳ [1817 – 1825] và là đồng minh thân cận của Thomas Jefferson [tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ]. Dưới thời Tổng thống James Madison, ông đã từng vừa giữ chức Bộ trưởng chiến tranh, vừa là Ngoại trưởng và đã giúp Mỹ giành phần thắng trong cuộc chiến tranh với Anh năm 1812. Trúng cử năm 1816, nhiệm kỳ của ông được đánh dấu bằng việc dành được tiểu bang Florida [1819] và ký Thỏa hiệp Missouri [1820]. Ông rời chức Tổng thống năm 1825 và mất ngày 4/7/1831 ở New York.

Về phần mình, người Anh cũng quan tâm mạnh mẽ đến việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh do những lợi ích thương mại quan trọng của Anh ở khu vực này. Đầu năm 1823, Bộ trưởng Ngoại giao Anh Canning đã đề nghị với phía Mỹ rằng hai nước nên đưa ra một tuyên bố chung để ngăn chặn bất kỳ cường quốc nào khác can thiệp vào Trung và Nam Mỹ. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Mỹ John Quincy Adams phản đối mạnh mẽ việc hợp tác với Vương quốc Anh, ông cho rằng một tuyên bố mang tính song phương như đề nghị của Anh có thể giới hạn sự mở rộng của Hoa Kỳ trong tương lai. Adams cũng chỉ ra rằng người Anh không thực sự thừa nhận nền cộng hòa của các nước Mỹ Latinh và chắc chắn nước Anh có động cơ đế quốc nào đó phía sau ý định như vậy.

Ngày 02 tháng 12 năm 1823, Tổng thống Monroe nhân dịp gửi thông điệp hàng năm tới Quốc hội đã công bố những điều mà sau này được gọi là Học thuyết Monroe. Tổng thống thông báo như một nguyên tắc rằng: “Các lục địa châu Mỹ với địa vị tự do và độc lập đã được thừa nhận và duy trì, từ nay về sau không còn bị xem là đối tượng của thực dân hóa trong tương lai do bất cứ một cường quốc Châu Âu nào tiến hành”.

Tiếp đó, trong bài phát biểu chuyển tới Liên minh Thần thánh, Tổng thống Monroe đã tuyên bố rằng “chúng ta coi tất cả nỗ lực nhằm mở rộng hệ thống của các cường quốc Châu Âu tại bất kỳ phần nào của Tây bán cầu đều là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh của chúng ta. Với sự tồn tại của các thuộc địa hoặc các xứ phụ thuộc của bất cứ cường quốc Châu Âu nào, chúng ta đã và sẽ không can thiệp. Nhưng với những chính phủ đã tuyên bố nền độc lập của mình và bảo vệ nền độc lập ấy, và được chúng ta thừa nhận thì chúng ta sẽ coi bất kỳ một sự can thiệp nào nhằm mục đích đàn áp, hoặc kiểm soát vận mệnh của họ bằng bất kỳ phương thức nào do bất cứ cường quốc châu Âu nào thực hiện đều thể hiện khuynh hướng thù nghịch đối với nước Mỹ.” Người ta có thể hiểu tuyên bố này như sự cách ly khỏi Châu Âu, một tuyên bố đơn phương nhằm thúc đẩy mở rộng chủ nghĩa biệt lập trong khu vực Tây bán cầu và từ chối tham gia những liên minh bắt buộc.

Học thuyết Monroe không phải là một điều gì mới mà là tổng hợp các nguyên tắc cũ và áp dụng chúng trong hoàn cảnh hiện tại. Các nguyên tắc cũ ở đây chính là tư tưởng biệt lập mà nước Mỹ đã theo đuổi trong quá trình hoạch định chính sách của mình trong giai đoạn đầu khi mới lập quốc. Học thuyết còn là một sự biện hộ mang tính lý thuyết cho chính sách phục vụ lợi ích nước Mỹ dựa trên ba nguyên tắc: “Không thuộc địa”, nghĩa là không cường quốc châu Âu nào có thể thiết lập các thuộc địa trong tương lai ở cả Bắc và Nam Mỹ; “Không can thiệp”, cảnh báo Châu Âu không được can thiệp vào công việc của Mỹ; và “Không can thiệp vào công việc của Châu Âu”, ngụ ý rằng hệ thống chính trị Châu Âu khác biệt với hệ thống chính trị ở Tây bán cầu.

Về cơ bản, nội dung của Học thuyết Monroe thể hiện mong muốn đưa Mỹ trở thành người bảo trợ cho an ninh và sự ổn định của khu vực Tây bán cầu, và không một lực lượng nào khác có quyền can thiệp vào công việc này của Mỹ. Những biểu hiện cho thấy việc Mỹ theo đuổi học thuyết này là cuộc cách mạng Mexico năm 1848, can thiệp ở Cuba [1898], quốc hữu hóa kênh đào Panama [1912], xâm lược Haiti [1915], cho đến chính sách chống chính quyền cộng sản Cuba [từ 1959]. Trong đó, việc xây dựng kênh đào Panama từ quan điểm địa chiến lược và địa chính trị được coi là một trong những thành công lớn nhất mà Học thuyết Monroe có được trong khu vực.

Học thuyết Monroe đã ghi dấu ấn trong mối quan hệ chính trị và kinh tế của Mỹ với các nước Mỹ Latinh trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 và phần lớn thế kỷ 20. Học thuyết này lúc đầu được các quốc gia Mỹ Latinh nhìn nhận rất tích cực. Họ coi đó là một sự hứa hẹn của Mỹ giúp họ duy trì nền độc lập và được coi như một văn kiện có tính ràng buộc cho việc xây dựng một liên minh toàn Châu Mỹ. Tuy nhiên, học thuyết đã cho thấy tính vị kỷ cường quốc khu vực, muốn nắm gọn trong tay những gì bên cạnh và không muốn bên ngoài can thiệp.

Trong thời kỳ đầu lập quốc, các Tổng thống Mỹ luôn theo tư tưởng chủ nghĩa biệt lập trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Học thuyết Monroe được cho là cũng theo tư tưởng đó. Tuy nhiên, về thực chất, Học thuyết Monroe không phải là một thứ chủ nghĩa biệt lập thuần túy mà là luận thuyết phân chia khu vực ảnh hưởng, phân chia thị trường của Mỹ. Người Mỹ bề ngoài mong muốn xây dựng một mối quan hệ đặc quyền với vùng Caribê và Trung Mỹ, nhưng trên thực tế, đó là sự bắt đầu của một chính sách can thiệp thật sự. Điều này được lý giải là do ở thời kỳ này, Mỹ còn yếu hơn rất nhiều cả về thế và lực so với các cường quốc khác ở Châu Âu, đặc biệt là Anh và Pháp. Vì vậy, Mỹ chỉ có thể thực hiện chính sách mở rộng ảnh hưởng ở khu vực nếu như không gặp phải sự can thiệp của các cường quốc Châu Âu.

Từ đây có thể thấy, không phải Mỹ muốn biệt lập, không có tham vọng dính líu gì tới bên ngoài mà thực chất Mỹ muốn ngăn cản các cường quốc châu Âu, không cho các cường quốc này bành trướng ảnh hưởng và trao đổi thương mại với các quốc gia Châu Mỹ vì Mỹ muốn coi đây là “sân sau” tự nhiên, là khu vực ảnh hưởng của riêng Mỹ. Như vậy, với Học thuyết Monroe và phương châm “châu Mỹ là của người Mỹ”, Châu Mỹ từ chỗ vốn là thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Châu Âu đã dần trở thành khu vực ảnh hưởng độc quyền của một nước Mỹ ngày càng lớn mạnh.

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp [chủ biên], Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, [TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013].

Video liên quan

Chủ Đề