Hồ Quý Ly có những cải cách gì về giáo dục

Hồ Quý Ly và vấn đề cải cách giáo dục

Hồ Quý Ly không hẳn là một nhà giáo mặc dầu ông từng đảm nhận việc dạy các hoàng tử và người trong cung. Ông là nhà cầm quyền chính trị, và trước cũng như sau ngày lên ngôi, về mặt giáo dục, ông là người có nhiều ý kiến và biện pháp cải cách táo bạo và sắc sảo. Bài viết này nhằm góp phần trình bày về nhận thức và biện pháp của ông trong lĩnh vực giáo dục.

Thành Nhà Hồ. [Ảnh: Hoàng Cao Đại]

Đặt lại hoàn cảnh cụ thể của việc giáo dục ở cuối thời Trần

Cuối thời Trần, xã hội Việt Nam thật hỗn độn. Điều đó có thể tóm lược trong mấy dòng: Trên thì vua mất cả chính lệnh, trong triều thì các bè đảng đua nịnh, ngoài nội thì dân tình đói khát, khổ sở. Các bậc thầy của Nho, Phật trước đó xem như đã được đưa vào bảo tàng [Chu Văn An được thờ ở Văn Miếu; những đại biểu của Phật giáo như Trúc Lâm Tam tổ cũng chỉ là những ánh hào quang ở một số vùng chùa chiền v.v..] Một vài vị như Lê Quát muốn đề cao Nho học nhưng ảnh hưởng chẳng bao lăm. Một số vị khác thì bi quan – như Trần Nguyên Đán cáo lão bỏ về, hoặc tiêu cực ăn lễ lạt như hạng Đỗ Tử Bình. Đạo Lão, đạo Phật còn sút kém hơn. Rất nhiều tráng đinh bỏ việc quan đi ở chùa nhằm trốn tránh đóng góp. Phạm Sư Ôn, một đệ tử Thích Ca ở Quốc Oai còn xưng hoàng đế, đem quân định chiếm Thăng Long. Bên ngoài, giặc Chiêm Thành thường xuyên gây rối và cướp phá. Sách vở tan nát, sĩ phu xiêu dạt. Quý Ly bấy giờ là Khu mật viện đại sứ, dạy dỗ trong cung. Ông đã có một cách nhìn và những ý đồ cải cách giáo dục.

Ý đồ cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly: Nhận thức và tổ chức thực hiện

Những nhận thức độc đáo của riêng Hồ Quý Ly.

Nguyễn Đổng Chi, trong sách “VN cổ văn học sử” khẳng định: Họ Hồ chịu mạnh cái tinh thần của Vương An Thạch [1021-1086], một tể tướng nhà Tống. Vương An Thạch “có một độ bài xích những lối học huấn hỗ và chủ sở của tiên nho cùng những vấn đề cải lương Trung Quốc. Hồ còn hơn Vương về chỗ chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề hành động” [“VN Cổ văn học sử” trang 373 – Hàn Thuyên xuất bản, 1943].

Trên tạp chí “Nam Phong” số 100 cũng ghi lời Lê Thúc Thông trong Nam sứ liệt truyện khảo cứu nói: “Xem Quý Ly đương buổi Tây lịch 1411 khi ấy các nước Âu châu chưa đến trình độ bản khai mà nước ta đã có Quý Ly bày đặt các việc, trước đã khêu đèn văn minh, phỏng Bá Kỳ không đưa quân Minh về trở ngạnh để cho Quý Ly hết sức kinh lý giang sơn, trùng tân nhật nguyệt, nước ta hẳn kéo cờ văn minh, thủ xuất trước các nước ở bên Đông á”.

Các học giả trên đều khẳng định Hồ Quý Ly có hoài bão và tư tưởng khác đời. Chúng tôi muốn tìm hiểu cụ thể hơn.

Trước hết là thái độ của Hồ Quý Ly với Khổng Tử và Tống nho. Trong khi Nho học đề cao Không Tử thì Quý Ly đưa ra 14 thiên Minh Đạo dâng Trần Nghệ Tông, trong đó đại lược khen Chu Công hơn Khổng Tử. Phải xem Chu Công là tiên thánh, thờ ở giữa Văn miếu, còn Khổng Tử thì chỉ là thầy [tiên sư] thờ bên cạnh.

Ông cũng nêu những điều ngờ vực trong Luận ngữ. Ta không đánh giá đúng, sai về những ngờ vực này mà chỉ đánh giá phương pháp nhận thức của Hồ Quý Ly. Có lẽ ở Á Đông trừ Mặc Tử là người ngoại đạo chỉ có Hồ Quý Ly là dám phơi bày một suy nghĩ độc lập, không giống cách hiểu truyền thống của người xưa. Như vậy có thể khẳng định về cách nghĩ của Hồ Quý Ly là thiết thực. Thiết thực đến độ tàn bạo và độc đoán. Chẳng hạn chế nhóm học giả Trình Di. Chu Hi chỉ biết học rộng mà không biết làm việc, cho đó là bọn “ăn trộm”. Gặp phải ý kiến phản bác của Đoàn Xuân Lôi, Đào Sư Tích, ông cách chức họ, bắt đi dày. Đặc biệt Hồ Quý Ly ghét hạng nhà nho nô lệ người xưa, hay viện cổ chứng kim. Năm 1402, Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa dâng thư xin theo giống Hán Đường cũ cho dân gian nộp lúa để chứa ở chỗ ven cõi rồi ban tước hoặc tha tội cho họ tuỳ theo thứ bậc. Hồ Quý Ly đã phê: “biết chữ được bao lăm mà cũng hay nội việc nhà Hán, Đường, ấy cho nên gọi là người câm hay nói, chỉ để mua cười thôi”.

Thái độ của Hồ Quý Ly đã đi đến chỗ “độc kiêu” – chữ dùng của cụ Huỳnh Thúc Kháng – song như thế đủ chứng tỏ ông giàu phán đoán, có sức sáng tạo và can đảm.

Từ nhận thức này mà Hồ Quý Ly có thái độ quan tâm đến văn hoá nước nhà, quan tâm đến lối học thực dụng, chẳng hạn ông quan tâm đến chữ Nôm, thơ Nôm, ông chú ý đến môn toán. Kỳ thi năm 1393 gọi là thi lại viên, ông cho tổ chức cả thi chữ nghĩa lẫn thi sự vụ hành chính. Sử còn chép Hồ Quý Ly làm sách Thi nghĩa bằng quốc âm [có lẽ là sách dạy về ca dao] để dạy hậu phi và cung nhân. Bài tựa sách, Hồ Quý Ly viết theo ý mình, không theo lối hiểu của Chu Hi – người có công trong việc giảng Kinh thi của Khổng Tử.

Việc tổ chức giáo dục dưới thời Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương.

Hồ Quý Ly bắt tay vào cải cách giáo dục có lẽ từ các cuốn sách như “Thi nghĩa” [dùng dạy hậu phi và cung nhân], dịch thiên Vô Dật ra quốc âm để dạy vua và Hoàng tử, ấy là khi ông chưa chính thức nắm quyền điều hành quốc gia. Có một điểm khiến chúng tôi ngờ rằng Hồ Quý Ly không dạy đúng như thiên Vô Dật trình bày. Sách này dạy những phép tắc, yêu cầu, cách thức làm vua. Nếu ông dạy đúng tinh thần sách ấy thì tại sao sau đó ông còn dám chiếm ngôi của cháu ngoại?

Những nội dung cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly tiến hành trong thời gian ông cầm quyền rất đáng kể. Từ năm 1393 ông đã có lập một thư viện trên núi Lạn Kha và dùng Trần Tôn làm viện trưởng để dạy học trò. Năm 1396 ông định lại phép thi, bãi bỏ những gì thiếu sáng tạo. Đến năm 1402 lại thay đổi một lần nữa. Trước đó, lệ thi chỉ 3 đến 4 kỳ, nay thêm kỳ thứ 5 phải viết tập và làm toán. Sự mở đường cho toán học bắt đầu từ đây. Việc tổ chức các kỳ thi như vậy là khá toàn diện, có thi Thái học sinh [chữ nghĩa], có thi lại viên [sự vụ hành chính] chứ không thiên về lý thuyết như xưa.

Ông cũng rất chú ý yêu cầu mở rộng giáo dục cơ sở. Năm 1397 đã xuống chiếu: “Các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông mỗi phủ đều đặt một học quan, ban cho ruộng công cho phủ, châu lớn 15 mẫu, vừa 12 mẫu và nhỏ 10 mẫu để chỉ dụng dạy học ở lộ, phải đốc thúc học quan dạy dỗ học trò để cho thành tài nghề. Mỗi cuối năm phải chọn kẻ học giỏi tiến vào triều. Trẫm sẽ thân ra thi và cất vào dùng làm quan”. Các mặt hoạt động giáo dục khác, như dạy võ, dạy nghề thuốc cổ truyền cũng triệt để chống mê tín và hành động này được chứng minh bằng sự kiện giết phù thuỷ Trần Đức Huy năm 1403.

Mặc dù triều Hồ không mấy dài, nhưng một lớp nhân tài của đất nước cũng đã được xuất hiện. Có những nhân vật mà lịch sử không thể nào quên: Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Hồ Nguyên Trừng… Giáo dục thời Hồ Quý Ly, riêng những thành quả trên cũng đáng được ghi công trong lịch sử.

Những cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly nằm trong một chương trình cải cách cực kỳ lớn của ông và có thể khẳng định là mang nhiều nội dung tích cực, tiến bộ. Tiếc thay, triều Hồ ngắn ngủi không đủ để cho những cải cách của ông thực thi và kiêm nghiệm qua thực tế.

Nếu được phép nhìn nhận tổng quát về Hồ Quý Ly, chúng tôi mạnh dạn cho rằng ông không thuần tuý là một nhà chính trị cầm quyền. Ông nghiêng về phía là một học giả, một lý thuyết gia có tầm xây dựng những đề án chiến lược mang tính cách mạng. Ở thế kỷ XIV - XV. Việt Nam có một con người như vậy cũng đáng xếp vào hàng ngũ nhân vật nổi tiếng.

Hoàng Khôi

Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly

Mục a, b

Ngay từ khi còn là một đại thần, đặc biệt sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách trên nhiều lĩnh vực.

a] Về chính trị:

- Cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phảihọ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.

- Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.

- Đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.

b] Về kinh tế tài chính:

- Phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng.

- Ban hành chính sách hạn điền.

- Quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng.

Mục c, d, e

c] Về xã hội:

- Ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc, quan lại.

- Những năm có nạn đói, nhà Hồ lệnh cho các quan địa phương đi khám xét, bắt nhà giàu thừa thóc phải bán cho dân đói và tổ chức nơi chữa bệnh cho dân.

d] Về văn hoá, giáo dục:

- Bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.

- Cho dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy cho vua Trần và phi tần, cung nữ.

- Sửa đổi cả chế độ thi cử, học tập.

e] Về quân sự:thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường củng cố quân sự và quốc phòng.

ND chính

Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly trên các mặt: chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, quân sự,...

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly

Loigiaihay.com

  • Nhà Hồ thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô để làm gì?

    Nhà Hồ thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô để làm gì?

  • Em có nhận xét gì về chính sách quân sự, quốc phòng của Hồ Quý Ly?

    Em có nhận xét gì về chính sách quân sự, quốc phòng của Hồ Quý Ly?

  • Ý nghĩa, tác dụng cải cách của Hồ Quý Ly

    Tóm tắt mục 3. Ý nghĩa, tác dụng cải cách của Hồ Quý Ly

  • Nhà Hồ thành lập [1400]

    Tóm tắt mục 1. Nhà Hồ thành lập [1400]

  • Nhà Hồ được thành lập trong hoàn cảnh nào?

    Nhà Hồ được thành lập trong hoàn cảnh nào?

  • Em hãy trình bày và vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê sơ.

    ◦ Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tôg hoàn chỉnh và chặt chẽ nhất so với trước .Triều đình có đầy đủ các bộ ,tự ,các khoa và các cơ quan chuyên môn.

  • Hãy trình bày những nét chính về tình hình kinh tế thời Lê sơ

    Kinh tế thời Lê Sơ.

  • Cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn

    Tóm tắt mục 3. Cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn. Đầu năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy

  • Em hãy trình bày diễn biến trận Tốt Động - Chúc Động

    Tháng 10-1426, khoảng 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan,

Hồ Quý Ly có những cải cách gì về xã hội?

A. Ban hành chính sách hạn chế số nô tì được nuôi của các vương hầu, quý tộc và quan lại.

Đáp án chính xác

B. Ban hành chính sách hạn điền, quy định lại biểu thuế đinh và thuế điền.

C. Sửa đổi chế độ thi cử, học tập. Dịch các sách Hán ra chữ Nôm.

D. Bắt các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.

Xem lời giải

1. Về chính trị

Đặt quy chế về hệ thống quan lại địa phương, thống nhất việc quản lý từ trên xuống. Đó là một cải cách quan trọng về mặt chính trị theo xu hướng trung ương tập quyền. Cụ thể:

- Cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế dần các võ quan cao cấp do quý tộc tôn thất nhà Trần nắm giữ bằng những người không phảihọ Trần nhưng có tài năng và thân cận với mình.

- Hồ Quý Ly cho đổi tên một số đơn vị hành chính cấp trấn và quy định cụ thể, rõ ràng cách làm việc của bộ máy chính quyền các cấp.

- Đặt lệ cử các quan ở triều đình về các lộ thăm hỏi đời sống nhân dân và tìm hiểu tình hình làm việc của quan lại để thăng hay giáng chức.Các chức an phủ sứ ở lộ phải quản toàn bộ các lộ, phủ, châu, huyện trong lộ mình, ngoài ra quản chung toàn bộ các việc về hộ tịch, thuế khóa và kiện tụng. Lộ trực tiếp chịu trách nhiệm trước trung ương, như thế có nghĩa là thắt chặt hơn về mặt chính trị và nâng cao quyền lực của nhà nước trung ương.

Hồ Quý Ly [ 1336-1407]

2. Về kinh tế tài chính

- Phát hành tiền giấy thay thế tiền đồng:Năm 1396, Hồ Quý Ly mở đầu cuộc cải tổ của mình về kinh tế với việc phát hành tiền giấy, gọi là “Thông bảo hội sao”, bỏ hẳn việc dùng tiền đồng đang lưu hành trong xã hội. Tiền giấy có nhiều loại, vẽ hình khác nhau: loại 10 đồng [vẽ hình rau tảo], 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan [vẽ hình rồng]. Đó là một cải cách táo bạo, không những hủy bỏ đồng tiền cũ mà còn xóa đi một quan niệm cũ về tiền tệ. Sử dụng tiền giấy là một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử nước ta trước đó.

- Ban hành chính sách hạn điền: Năm 1397, Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền, tức là hạn chế việc sở hữu ruộng tư. Theo phép hạn điền, trừ đại vương và trưởng công chúa, còn tất cả mọi người, từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư [tối đa 10 mẫu], cho phép lấy ruộng tư chuộc tội. Nhà nước tiến hành đo đạc lại ruộng đất, diện tích thừa phải sung công, nghĩa là khôi phục chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Đó là những cải cách tiến bộ đánh mạnh vào thế lực của tầng lớp quý tộc điền trang và địa chủ tư hữu, tăng nguồn thu nhập sưu thuế cho nhà nước.

- Quy định lại biểu thuế đinh, thuế ruộng: Một chính sách cải cách kinh tế quan trọng của nhà Hồ là sự đổi mới chế độ thuế khóa. Mức thuế đối với ruộng đất công làng xã khoảng 1/3 sản lượng. Đó là mức thuế nhẹ mà nông dân các làng xã có thể chịu được. Đối với ruộng đất tư hữu, nhà Hồ đã tăng mức thuế từ 3 thăng/1 mẫu [thời Trần] lên 5 thăng/1 mẫu.

- Cùng với chính sách thuế, phép hạn điền phần nào có lợi cho những người nghèo ít ruộng, mặt khác, chặn đứng xu thế phát triển tự nhiên của ruộng đất tư hữu.

- Tiến thêm một bước, năm 1401, nhà Hồ đã ban hành phép hạn nô, các quý tộc bị hạn chế số nô tì, số thừa ra [những nô tì không có chúc thư 3 đời] bị sung công, bồi thường cho chủ 5 quan một người. Các loại gia nô phải thích dấu hiệu vào trán. Phép hạn nô đã chuyển một số lớn gia nô thành quan nô [nô tì nhà nước, họ có thay đổi về thân phận, nhưng vẫn không được giải phóng]. Cùng với phép hạn điền, phép hạn nô về cơ bản đã làm suy sụp tầng lớp quý tộc cũ nhà Trần và nền kinh tế điền trang, tăng cường thế lực kinh tế của Nhà nước trung ương.

Video liên quan

Chủ Đề