Đồng tình luyến ái nam là gì

 

Hầu như tất cả chúng ta đều có bạn hay biết người đồng tính luyến ái [ĐTLA]. Tôi cũng có một số bạn là người ĐTLA, một thành viên trong lab nghiên cứu của tôi là người ĐTLA và rất có tài. Ngoài tài năng trong nghệ thuật và ẩm thực, cộng đồng ĐTLA có khá nhiều người thành đạt trong xã hội.

Chẳng hạn, cựu chánh án tòa án tối cao của Úc [Michael Kirby] và cựu viện trưởng Viện đại học Macquarie là người ĐTLA. Trong chính trường Úc, có hơn 20 dân biểu hoặc bộ trưởng là người ĐTLA. Dù thỉnh thoảng bị kỳ thị nhưng nói chung họ được cộng đồng kính nể vì tài năng trong nghệ thuật, kinh doanh và viễn kiến chính trị.

Một lịch sử tìm kiếm câu trả lời

ĐTLA tương đối phổ biến trong cộng đồng. Nghiên cứu trên thế giới cho thấy cứ 100 người trong cộng đồng thì có chừng 5-10 người là ĐTLA [1]. Tỉ lệ này ở nữ giới là 2-4%. Tỉ lệ khác biệt giữa các nghiên cứu chủ yếu là do khác biệt về định nghĩa thế nào là ĐTLA, và do người tham gia nghiên cứu có “khai báo” thành thật hay không.

Tại các quốc gia với văn hóa “bảo thủ” ở châu Á, tỉ lệ ĐTLA có vẻ thấp hơn các nước phương Tây. Nhưng nếu làm nghiên cứu khách quan và chính xác thì có lẽ tỉ lệ ĐTLA giữa các quốc gia có thể sẽ không khác nhau nhiều.

Giả thuyết về ảnh hưởng của gene đến xu hướng ĐTLA đã được đặt ra từ hơn 20 năm trước. Phương cách dễ nhất và khoa học nhất để biết được mức độ ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến một đặc tính sinh học là xem xét những cặp song sinh.

Có hai nhóm song sinh: nhóm MZ, mà trong đó hai người có 100% gene giống y chang nhau, và nhóm DZ với hai người “chia sẻ” 50% gene. Do đó, nếu ĐTLA trong nhóm MZ nhiều hơn nhóm DZ thì đó là chứng cứ cho thấy có sự ảnh hưởng của yếu tố di truyền [gene].

Trong một công trình nghiên cứu nổi tiếng, hai tác giả Bailey và Pillard ước tính rằng trong nhóm MZ, khi một người là ĐTLA thì xác suất người song sinh cũng ĐTLA là 52%; trong nhóm DZ, xác suất này là 22%.

Kết quả này nhất quán với sự ảnh hưởng của gene đến xu hướng ĐTLA. Họ ước tính thêm rằng các di truyền tố giải thích khoảng 31% đến 74% những khác biệt giữa các cá nhân về xu hướng ĐTLA [2].

Sau khi đã “chứng minh” rằng xu hướng ĐTLA là một phần do yếu tố di truyền quyết định, câu hỏi kế tiếp là gene nào. Đây là một câu hỏi đơn giản, nhưng câu trả lời thì không hề đơn giản. Xác định trong số khoảng 24.000 gene và khoảng 2 triệu biến thể gene [polymorphism] có liên quan đến ĐTLA là một công việc được ví von là “mò kim đáy biển”’.

Tuy nhiên, trong thời gian qua đã có nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới tìm những gene mà họ hi vọng có thể giúp giải thích tại sao người ta có xu hướng trở nên ĐTLA.

Một trong những phát hiện gene làm phấn chấn cộng đồng nghiên cứu về ĐTLA được công bố vào đầu thập niên 1990. Qua nghiên cứu trên 40 cặp song sinh dạng DZ, nhóm nghiên cứu của Dean Hamer tuyên bố rằng họ đã phát hiện “gay gene”.

Trong số 40 cặp song sinh, họ phát hiện 33 cặp “chia sẻ” vùng gene có tên là Xq28 [3]. Bởi vì xác suất mà hai người của một cặp song sinh DZ [hay hai anh em] có cùng gene là 50%, trong khi đó ở nghiên cứu này, xác suất này lên đến 82% [33/40], nên đây là một phát hiện có ý nghĩa.

Nhưng vùng gene này có đến 4 triệu cặp mẫu tự [base pairs], nên việc xác định chính xác mẫu tự nào có liên quan đến ĐTLA vẫn là một thách thức khoa học. Do đó, nhiều nghiên cứu sau này khó lặp lại kết quả của nhóm Hamer.

Thay vì tập trung vào một gene đơn lẻ, một cách khác để tìm gene là rà soát toàn bộ nhiễm sắc thể, còn gọi là “genomewide association study” [GWA] để phát hiện xem vùng gene nào có thể có liên quan đến ĐTLA. Phương pháp GWA đòi hỏi phải có cỡ mẫu lớn và chi phí cao, và đòi hỏi phải có hợp tác quốc tế với nhiều chuyên gia từ nhiều chuyên ngành khác nhau.

Minh họa của Time

Nên hiểu thế nào về nghiên cứu mới nhất ?

Năm ngoái, một nhóm nghiên cứu Mỹ, Úc và Anh đã ứng dụng phương pháp GWA để tìm gene có liên quan đến ĐTLA và kết quả của họ đã được công bố trong một hội nghị di truyền học ở Mỹ. Kết quả này mới được chính thức công bố trên tập san khoa học lừng danh Science vào tuần qua [4].

Để hiểu kết quả nghiên cứu đó, tôi cần phải mô tả một số chi tiết chính về cách các nhà nghiên cứu đã thực hiện. Họ dùng dữ liệu của Dự án UKBiobank và của Công ty di truyền học “23andMe”. Tổng số cỡ mẫu nghiên cứu lên đến 477.000 người.

Họ định nghĩa ĐTLA bằng cách hỏi đối tượng tham gia nghiên cứu. Chẳng hạn, họ hỏi đối tượng nghiên cứu là “có quan hệ tình dục” với người đồng giới tính hay không, sau đó họ hỏi thêm về những mơ tưởng mang tính dục tính [sexual fantasy] của đối tượng nghiên cứu mà họ nghĩ là có xu hướng ĐTLA. Nói cách khác, cách nhóm nghiên cứu định nghĩa và xác định ai là ĐTLA không mang tính khoa học cao, vì chẳng có xét nghiệm sinh học nào cả.

Kết quả phân tích trên hơn 1 triệu biến thể gene, nhóm nghiên cứu phát hiện 5 vùng gene [thuật ngữ di truyền gọi là “loci”] trong hệ gene có liên quan đến xu hướng ĐTLA [theo cách họ xác định như mô tả trên]. Nói đúng ra là không hẳn là “vùng gene”’ mà là 5 biến thể [SNP].

Trong số 5 vùng gene này, có 2 vùng cho cả nam và nữ, 2 vùng chỉ phát hiện ở nam giới, và 1 vùng chỉ ở nữ giới [4]. Điều thú vị là 2 trong số 5 vùng gene đó từng được biết là có liên quan đến hormone sinh dục và khứu giác. Hai yếu tố này, hormone sinh dục và khứu giác, làm cho người ta cảm thấy hấp dẫn với nhau.

Kết quả nghiên cứu này tuy được công bố trên tập san Science nhưng giới nghiên cứu di truyền học trên thế giới không… ấn tượng. Lý do là vì cách thức mà nhóm nghiên cứu định nghĩa ĐTLA là thiếu tính khoa học và có phần không thỏa đáng, bởi vì không có xét nghiệm hormone thì rất khó nói những gì đối tượng nghiên cứu “khai báo” có hợp lý hay không. Khi xem xét kỹ kết quả nghiên cứu, có vài dữ liệu rất khó diễn giải. Chẳng hạn như SNP số rs34730029 [phát hiện ở nam giới] hiện diện trong 94% dân số - một tần số cao một cách bất thường.

Nhưng cả 5 vùng gene này cũng giải thích không đầy 1% những khác biệt về xu hướng ĐTLA. Nói cách khác, những gene phát hiện không thể giúp nhà nghiên cứu tiên lượng ai là ĐTLA hay không ĐTLA. Nói cách khác nữa, chẳng có gene ĐTLA nào cả. Nếu kết quả này đúng thì ý nghĩa là xu hướng ĐTLA không phải hiện hữu từ lúc còn trong bụng mẹ hay mới sinh ra.

Nếu xu hướng ĐTLA không phải do yếu tố sinh học, câu hỏi kế tiếp là tại sao người ta trở nên ĐTLA? Câu trả lời là do môi trường và văn hóa. Trung tâm nghiên cứu tâm lý Kinsey từng quan sát rằng có không ít cặp vợ chồng ăn ở với nhau, có con, nhưng sau này thì một trong hai người trở nên ĐTLA [5].

Thậm chí, một số người quan sát rằng chuyên ngành tiếp viên hàng không là kỹ nghệ thu hút nhiều người ĐTLA nam giới [6] [nhưng xu hướng này không có nghĩa là làm việc trong môi trường hàng không là nguyên nhân của ĐTLA]. Dĩ nhiên, cũng không loại trừ một số người tự chọn trở thành ĐTLA.

Ngay từ thập niên 1960 đã có nhiều giả thuyết giải thích tại sao người ta trở nên ĐTLA. Các giả thuyết này nhấn mạnh đến các yếu tố môi trường xã hội trong giai đoạn đứa trẻ đang phát triển, sự ảnh hưởng của cha mẹ, và sự gắn bó với cha hay mẹ.

Đáng chú ý trong các nghiên cứu này là quan sát của nhà tâm lý học Irving Bieber, khi ông phát hiện qua phân tích thống kê rằng ở nam giới, những người trưởng thành “bình thường” nhưng sau này lớn lên trở thành ĐTLA, trước đó thường có quyến luyến với mẹ hơn là với cha [7].

Kết quả nghiên cứu này được lặp lại bởi các nhóm nghiên cứu khác. Chẳng hạn như một nghiên cứu vào giữa thập niên 1960 phát hiện rằng gần 70% những người đàn ông ĐTLA gần gũi và gắn bó với mẹ, và khoảng 1/3 không thân thiện với cha [7].

Tóm lại, nghiên cứu khoa học mới nhất tuyên bố rằng không có gene ĐTLA, và điều này nói lên rằng xu hướng ĐTLA không phải có ngay từ lúc mới sinh ra. Nhiều nghiên cứu trong quá khứ nói lên rằng xu hướng ĐTLA chủ yếu do các yếu tố môi trường xã hội và đặc biệt là sự gắn bó của nam giới với mẹ. ■

NGUYỄN VĂN TUẤN

1. “LGBT” nghĩa là gì?

“LGBT” là tên viết tắt của “đồng tính nữ [Lesbian], đồng tính nam [Gay], song tính [Bisexual] và chuyển giới [Transgender]”. Thuật ngữ này mô tả xu hướng tình dục của một người, tức là họ có sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với những người cùng giới tính.

  • “Gay” là từ dùng để mô tả một người [có thể là nam hoặc nữ] bị thu hút bởi những người cùng giới.
  • “Straight” mô tả một người [nam hoặc nữ] bị thu hút bởi những người khác giới.
  • Người đồng tính nữ [Lesbian] là một người phụ nữ bị thu hút bởi những người phụ nữ khác.
  • Người song tính [Bisexual] mô tả một người [nam hoặc nữ] bị thu hút bởi cả hai giới.

Theo thống kê tại Hoa Kỳ có khoảng 3,5% số người được xác định là người đồng tính hoặc song tính. Nhưng nhiều người trong số họ cảm thấy rằng họ không phải là 100% đồng tính, thẳng tính hay song tính. Xu hướng tình dục của những người này thường theo hướng liên tục, lâu dài và cố định. Tuy nhiên, cũng có một số người không cảm thấy có bất kỳ sự hấp dẫn tình dục nào kể cả ở người cùng giới hay khác giới, đây được coi là trường hợp “vô tính”.

2. Bản dạng giới [gender identity] là gì?

Bản dạng giới, hay còn gọi là nhận thức giới tính không giống với xu hướng tình dục. Bản dạng giới tức là nhận thức của một người về giới tính, có thể là nam, nữ hoặc giới tính khác.

3. Thế nào là người chuyển giới?

Người chuyển giới có nghĩa là người có bản dạng giới khác với giới tính mà họ được chỉ định khi sinh ra [giới tính sinh học]. Một người sinh ra là nữ nhưng có thể cảm thấy rằng họ thực sự là con trai và ngược lại, sinh ra là nam nhưng họ lại cảm thấy mình là một cô gái.

Một số người chuyển giới quyết định sống, ăn mặc và hành động theo giới tính mà họ nhận thức rằng họ thực sự thuộc về giới tính đó. Một số người chọn phẫu thuật hoặc dùng hormone để cơ thể phù hợp hơn với bản dạng giới của họ. Nhưng cũng có những người khác thì chưa phẫu thuật để chuyển đổi giới tính.

4. “Cisgender” có nghĩa là gì?

“Cisgender” là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả những người có bản dạng giới giống với giới tính mà họ được chỉ định khi sinh ra. Thuật ngữ này trái ngược với khái niệm chuyển giới.

5. Xác định đồng tính nữ, đồng tính nam, hoặc song tính

Quan hệ tình dục của một người không quyết định xu hướng tình dục của họ. Đôi khi xu hướng tình dục có liên quan nhiều hơn đến cảm giác yêu thương và chăm sóc. Nhiều người trưởng thành và thanh thiếu niên chưa bao giờ quan hệ tình dục với người cùng giới nhưng vẫn xác định là đồng tính.

6. Khi nào một người nhận thức được bản dạng giới của họ là gì?

Ngay ở tuổi dậy thì, một số thanh thiếu niên đã đặt câu hỏi về bản sắc giới tính của họ. Nhưng hầu hết mọi người đều có ý thức ổn định về giới tính của họ bắt đầu từ rất sớm, khoảng 4 tuổi. Nếu bạn đã nhận thức hay cảm nhận được về giới tính của mình kể từ khi bạn còn nhỏ hoặc miễn là bạn có thể nhớ, có lẽ bạn sẽ không thay đổi suy nghĩ của mình. Nếu bạn bối rối về danh tính giới tính của mình, hãy tìm sự hỗ trợ bằng cách nói chuyện với người mà bạn tin tưởng, chẳng hạn như bác sĩ hoặc chuyên gia chăm sóc sức khỏe.

Một số vấn đề mà thanh thiếu niên LGBT có thể phải đối mặt khi ở nhà, ở trường và trong cộng đồng.

Xã hội nói chung đang thay đổi, hiện nay đã có nhiều nước cho phép các cặp đồng giới kết hôn. Bên cạnh đó, nhiều trường học đã hỗ trợ cho thanh thiếu niên LGBT và tạo môi trường an toàn cho tất cả học sinh. Tuy nhiên, tình trạng những học sinh LGBT bị bắt nạt ở trường vẫn xảy ra. Nếu những ai đang bị lâm vào tình trạng này, hãy nói chuyện với cha mẹ, giáo viên để tìm ra giải pháp.

Hiện nay, vẫn còn nhiều cộng đồng không chấp nhận người LGBT. Đã có một số nước đưa ra luật pháp để giải quyết các hành vi thù địch hoặc chống lại người LGBT, nhưng nhiều nước vẫn không ban hành luật để bảo vệ họ khỏi sự phân biệt đối xử. Do đó, người LGBT thường phải che giấu giới tính thật sự của họ.

Tất cả những yếu tố này có thể khiến một thiếu niên LGBT cảm thấy lo lắng và cô đơn. Thanh thiếu niên LGBT nếu không được nhận sự ủng hộ bởi gia đình và trường học có nhiều khả năng sẽ bị trầm cảm. Nhiều người trong số họ đã đối phó với những suy nghĩ và cảm xúc này theo những cách tiêu cực. Họ có thể làm tổn thương chính họ hoặc chuyển sang ma túy và rượu. Một số bỏ học, bỏ nhà ra đi.

7. Có nên công khai với gia đình và xã hội rằng bản thân là LGBT?

Đây là một câu hỏi mà nhiều người LGBT ở mọi lứa tuổi đều băn khoăn, trăn trở. Một số cha mẹ sẽ cởi mở và chấp nhận, trong khi những người khác có thể không hiểu ý nghĩa của đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính hoặc chuyển giới nên họ sẽ có những định kiến ​​về người LGBT. Nếu chưa đủ can đảm để công khai giới tính của mình, hãy tìm đến những chuyên gia tư vấn để được giải đáp băn khoăn và đưa ra quyết định đúng đắn.

8. Có phải những người đồng tính nữ có nguy cơ mang thai và nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục [STIs]?

Những cô gái có quan hệ tình dục với người giới tính nữ cũng có thể bị nhiễm STI [các bệnh lây truyền qua đường tình dục]. Các STI bao gồm virus gây suy giảm miễn dịch ở người [HIV], papillomavirus ở người [HPV], herpes sinh dục, giang mai, lậu, và chlamydia, có thể lây truyền [truyền từ bạn tình sang người khác] qua quan hệ tình dục bằng miệng. Một số STI [HPV và mụn rộp sinh dục] có thể lây truyền qua tiếp xúc da kề da. Bệnh viêm âm đạo do vi khuẩn cũng là một loại bệnh phổ biến ở người đồng tính nữ. Nó có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng hoặc đồ chơi tình dục.

Các cô gái tuổi teen nên đi khám để kiểm tra tình trạng sức khỏe sinh sản vào khoảng từ 13 đến 15 tuổi, và nên đi khám định kỳ mỗi năm. Ngoài ra, những người chuyển giới vẫn có cơ quan sinh sản nữ hoặc đang sử dụng nội tiết tố nữ cũng cần được chăm sóc sức khỏe sinh sản nữ.

Tất cả những người có hoạt động tình dục với bạn tình khác giới cần sử dụng biện pháp tránh thai để tránh mang thai ngoài ý muốn. Điều quan trọng là phải sử dụng bao cao su mỗi lần để không mắc phải các bệnh lây truyền qua đường tình dục [STIs]. Bên cạnh đó có thể sử dụng phương pháp rào cản như tấm chắn miệng và găng tay khi chạm vào bộ phận sinh dục khác bằng ngón tay, miệng hoặc chạm vào đồ chơi tình dục.

Gói Khám, Sàng lọc các bệnh xã hội của Phòng khám đa khoa Biển Việt giúp khách hàng khám sàng lọc các bệnh xã hội nhằm phát hiện bệnh sớm để có hướng điều trị hiệu quả, tránh biến chứng xảy ra.

Gói khám sàng lọc các bệnh xã hội dành cho mọi lứa tuổi, dành cho cả nam và nữ. Để được tư vấn và đặt lịch khám, Quý Khách có thể liên hệ TẠI ĐÂY

Nguồn tham khảo: Acog.org

Video liên quan

Chủ Đề