Dân biết dân bàn dân kiểm tra là gì năm 2024

[Danvan.vn] Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn chủ trương “lấy dân làm gốc”, “dân là gốc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước lấy dân làm gốc”[1]; “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”[2]. Theo Người, dân không chỉ là gốc, là nền móng, mà dân còn “là chủ”.

BÙI THỊ MINH HOÀI Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương

​Qua các kỳ Đại hội Đảng, tư tưởng này ngày càng được bổ sung, phát triển. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tư tưởng về dân đã có bước phát triển mới về chất, hệ thống hơn. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Dân là gốc”, dân là chủ thể, dân là trung tâm; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Đây là sự chắt lọc tinh túy truyền thống lịch sử; sự bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại.

Đồng thời, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng rút ra bài học: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”[3].

.jpg] Hội nghị toàn quốc Tổng kết công tác dân vận và đánh giá kết quả thực hiện Năm “Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” 2021, triển khai nhiệm vụ năm 2022

Quá trình phát triển chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, một trong những nội dung được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh - đó là tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức thực hiện ở cơ sở cho thấy quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng, việc huy động sự đóng góp và sức dân đôi khi còn mang tính mệnh lệnh hành chính. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, “xin - cho” làm hạn chế tính tích cực, năng động, sáng tạo vốn có của người dân; hạn chế quyền làm chủ trực tiếp của người dân, làm phát sinh sự bức xúc trong đời sống xã hội, làm cho niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước bị giảm sút.

Ngày 28/11/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng [khóa V] đã ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW “Về tăng cường công tác quần chúng của Đảng”. Trong Chỉ thị nhấn mạnh nội dung: “Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện tốt khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong sản xuất, phân phối cũng như trong tất cả các công tác quan hệ trực tiếp đến quần chúng”. Có thể nói, lần đầu tiên khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Đảng ta chính thức đề ra, trở thành một chủ trương lớn, một phương châm hành động cụ thể.

Đại hội VI của Đảng [tháng 12/1986] đề ra đường lối đổi mới, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, mở ra thời kỳ phát triển mới. Xuất phát từ thực tiễn, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc về dân: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”; “Đảng không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân”; “Quần chúng là người làm nên lịch sử”. Tại Đại hội này, Đảng ta đã đề ra cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”, đồng thời khẳng định “thực hiện có nền nếp khẩu hiệu dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Lần đầu tiên phương châm này được gọi là “khẩu hiệu”. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, khẩu hiệu này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả vào cuộc sống bởi vì chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện.

Đại hội VIII của Đảng [tháng 6/1996] đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước” [tại Đại hội này, khái niệm “khẩu hiệu” được thay bằng khái niệm “phương châm”].

Cách đây hơn 20 năm, xảy ra một số vụ việc vi phạm dân chủ ở nông thôn tỉnh Thái Bình và một vài địa phương khác khi nhân dân tham gia đóng góp xây dựng hạ tầng đường, trường, trạm... đã không được bàn bạc, mức đóng góp quá sức dân, gây bức xúc trong nhân dân. Trước tình hình đó, tháng 02/1998, Bộ Chính trị [khóa VIII] đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Chỉ thị nhấn mạnh: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”[4]. Nội dung chính của Quy chế dân chủ [QCDC] ở cơ sở đều xoay quanh 4 khâu liên quan đến dân chủ: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực hiện chủ trương này, Chính phủ đã ban hành các nghị định thực hiện QCDC ở các loại hình cơ sở. Ngày 28/3/2002, Ban Bí thư [khóa IX] ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở” theo nội dung phương châm căn bản trên.

Vào các ngày 28-29/9/2004, Ban Bí thư [khóa IX] đã tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 06 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị. Ngày 15/11/2004, Ban Bí thư có Thông báo số 159-TB/TW “Kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị [khóa VIII] và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”.

Sau một thời gian thực hiện, năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL/UBTVQH “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”; Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2007/NĐ-CP “Về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” và một số nghị định cho các loại hình cơ sở khác.

Cùng với hình thức dân chủ đại diện, với Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, sau đó là các nghị định của Chính phủ, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lần đầu tiên, người dân thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp ở cơ sở một cách đồng bộ với những quy định, quy chế được chính người dân ở cơ sở xây dựng và thực hiện.

Ngày 04/3/2010, Ban Bí thư [khóa X] đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị [khóa VIII]. Tháng 02/2010, Ban Bí thư [khóa X] đã tổ chức Hội nghị toàn quốc Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị. Ngày 07/01/2016, Bộ Chính trị [khóa XII] đã ban hành Kết luận số 120-KL/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ [bổ sung, phát triển năm 2011] và Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định bản chất “nhân dân làm chủ”, “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân” là 2 trong 8 đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

Đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội và đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương cùng đoàn công tác thăm và tặng quà Mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Liên, sinh năm 1939 [phường Tân Hòa, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long]

Tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, đặc biệt là kế thừa và phát triển tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử của dân tộc, bài học “dân là gốc” tiếp tục được phát triển bổ sung trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đại hội đã bổ sung nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” vào phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để tạo thuận lợi, có cơ sở chính trị, pháp lý tổ chức thực hiện, mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân: [1] “Dân giám sát” là nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không. Giám sát bằng hình thức, phương pháp cụ thể, thường xuyên, theo nội dung công việc, trực tiếp, hoặc gián tiếp; [2] “Dân thụ hưởng” là nhân dân được nhận, thụ hưởng thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Nhân dân thụ hưởng lợi ích, giá trị dẫn tới xã hội có trật tự, kỷ cương, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì con người, vì nhân dân, lan tỏa giá trị tiến bộ, nhân văn, phẩm giá con người, bản chất của chế độ xã hội. Trong thực tế đời sống xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt 35 năm đổi mới đất nước, nhân dân đã thụ hưởng tất cả những thành quả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới mang lại.

Có thể khẳng định sự bổ sung hai nội dung này là sự phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện chủ trương của Đảng về dân chủ. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực, quan trọng trong xây dựng và phát huy nguồn lực con người, là động lực, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giai đoạn tiếp theo.

Tuy nhiên, việc bổ sung nội dung “dân thụ hưởng” vào phương châm nhằm khẳng định vai trò làm chủ, chủ thể nhân dân và đích cuối cùng của mọi chủ trương, chính sách, pháp luật là vì lợi ích của nhân dân, đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, đồng thời thể hiện rõ thực tiễn, mục tiêu, con đường đi lên CNXH, dân chủ - nhân dân làm chủ là vấn đề cơ bản, là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Như vậy, “biết”, “bàn”, “làm”, “kiểm tra”, “giám sát”, “thụ hưởng” trong nội dung phương châm là quá trình tiếp nối biện chứng, có quan hệ chặt chẽ, chuyển hoá với nhau, gắn liền với vai trò chủ thể là nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Đây không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh và nguồn lực nhân dân trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Đó cũng chính là động lực quan trọng để hiện thực hóa định hướng và tầm nhìn trong giai đoạn mới, hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc, đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng tới của CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta lựa chọn, xây dựng, phát triển đất nước “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vừa là mục tiêu, vừa là động lực khơi dậy sức mạnh, nguồn lực nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước

Các nội dung “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được bổ sung, phát triển tại Đại hội XIII của Đảng đã được triển khai thực hiện với nhiều hình thức phong phú; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và mạng xã hội phục vụ có hiệu quả công tác tuyên truyền, thông tin đến người dân các nội dung về bầu cử, công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19, các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh…

Chính quyền cơ sở chỉ đạo, thực hiện công khai các nội dung theo quy định để nhân dân biết với các hình thức phù hợp; tạo điều kiện để nhân dân tham gia bàn bạc, thảo luận và quyết định trực tiếp trong bình chọn các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, về chủ trương và mức đóng góp trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, về bồi thường, giải phóng mặt bằng và các công trình phúc lợi trong xây dựng nông thôn mới.

MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội tích cực vận động nhân dân tham gia các hoạt động tự quản cộng đồng, thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng ở cơ sở đã phát huy được hiệu quả, nhất là giám sát công trình, dự án có sự tham gia đóng góp trực tiếp của người dân, góp phần đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng nơi được thụ hưởng dự án.

Thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ được người đứng đầu các cơ quan, đơn vị quan tâm chỉ đạo thực hiện.

Việc thực hiện QCDC ở cơ sở tại nơi làm việc tiếp tục được duy trì, nhận thức về việc thực hiện QCDC của người sử dụng lao động có những chuyển biến tích cực, chủ động phối hợp với công đoàn cơ sở xây dựng QCDC, phát huy quyền làm chủ, lắng nghe, giải quyết kịp thời các đề xuất, kiến nghị của người lao động, tạo sự đồng thuận, tin tưởng, gắn bó của người lao động với doanh nghiệp, giảm xung đột lợi ích và tranh chấp lao động tập thể.

Đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Ban Dân vận Trung ương, thăm, tặng quà cho chư tăng Phật giáo Nam tông chùa Candanransi nhân Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây

Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đã được triển khai ngày càng sâu rộng, từng bước vững chắc và thực sự đi vào cuộc sống, nhất là phát huy dân chủ ở cơ sở, đạt kết quả tích cực. Nhà nước từng bước thể chế hóa Hiến pháp, pháp luật phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển và yêu cầu của đất nước. Chế độ dân chủ đại diện được phát huy; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được nâng cao; cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tích cực. Dân chủ trực tiếp ở các cấp, dân chủ ở cơ sở được mở rộng, nhân dân được bàn và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của nhân dân, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Công tác giám sát của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân được chú trọng và đạt nhiều kết quả tốt. Phương châm đã góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc thực thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn một số hạn chế:

[1] Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phương châm chưa thực sự thường xuyên; công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện chưa được chú trọng. Một số văn bản pháp luật liên quan đến dân chủ ở cơ sở chậm được xây dựng và hoàn thiện.

[2] Việc thực hiện ở cơ sở chưa đồng đều ở các khu vực, loại hình cơ sở; có nơi vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức, ý kiến của nhân dân chưa thực sự được lắng nghe, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân nhiều nơi chưa được ngăn chặn, đẩy lùi; có tình trạng lợi dụng theo hướng tiêu cực, chống đối, xuyên tạc, gây mất an ninh, trật tự, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ.

[3] Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, trong đó nhân dân làm chủ - thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chưa được thể chế hóa một cách cụ thể, đầy đủ, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.

[4] Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị có mặt chưa theo kịp yêu cầu tình hình mới, chưa thật sự sâu sát với hơi thở cuộc sống của các tầng lớp nhân dân và bám sát cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng chưa đều. Trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ sở dịch vụ, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập… còn khó thực hiện.

[5] Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng, coi nhẹ ý kiến, kiến nghị của nhân dân, giải quyết chưa kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Qua đó, có thể thấy những vấn đề đặt ra: [1] Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, đưa phương châm thành các quy định chặt chẽ, đồng bộ, cụ thể trong hệ thống pháp luật; [2] Thực hành phương châm trong thực tiễn đời sống xã hội, xác định, phân định rõ phạm vi, quy trình công khai, minh bạch, cách thức triển khai, thực hiện. [3] Dân là chủ phải gắn với kỷ cương, phép nước, đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật. [4] Tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với người dân, đổi mới và nâng cao chất lượng các hình thức lấy ý kiến của nhân dân. [5] Phát huy tính ưu việt, bản chất tốt đẹp dân chủ XHCN, đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, làm thất bại âm mưu chống phá, “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ chế độ ngày càng gay gắt.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là phát huy dân chủ XHCN, bồi dưỡng sức dân, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài. Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 chỉ rõ phải phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân. Thực hiện đúng, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, quán triệt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”: Trong mọi công việc của Đảng, Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Trên cơ sở đó, để thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các cấp ủy đảng và của cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên; tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, quán triệt sâu sắc phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để làm tốt công tác tham mưu với Đảng, Nhà nước về chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật, trong đó sớm ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Gắn thực hiện phương châm với đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn quyền làm chủ, vai trò chủ thể của mình, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tạo sự đồng thuận, ý thức tự giác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Ba là, qua hoạt động thực tiễn kịp thời phát hiện những vướng mắc, hạn chế trong thực hiện phương châm để tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước rà soát, đề nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cụ thể hoá các quy phạm pháp luật theo phương châm; đồng thời, hoàn thiện trong chủ trương, đường lối, thể chế hóa phương châm trong hệ thống pháp luật bảo đảm tính đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, hình thành cơ chế chặt chẽ, quy trình cụ thể, cách thức tiến hành khoa học, hiệu quả.

Bốn là, thực hiện phương châm gắn với công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Xây dựng cơ chế công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật, từ đó có cơ sở pháp lý, điều kiện để nhân dân thực hiện phương châm. Tiếp thu ý kiến đóng góp xác đáng, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình, giúp đỡ, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm là, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân”, “thế trận quốc phòng toàn dân” gắn với “thế trận an ninh nhân dân” vững chắc. Đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh hoạt động lợi dụng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để hoạt động tiêu cực, vi phạm pháp luật, chống phá; đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới trên con đường thực hiện mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc./.

------

1, 2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.501; tr.502.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.96-97

4. Ban Dân vận Trung ương Đảng: Một số văn kiện của Đảng về công tác dân vận thời kỳ đổi mới [1986-2011], Nxb Lao động, 2011, tr.157.

Chủ Đề