Carcinom tế bào gai tiếng anh là gì năm 2024

Em năm nay 33 tuổi, bị nổi hạch ở bên cổ phải, cứng, không đau, đã đi sinh thiết Amidan phải với kết quả là: Bướu nhú gai kèm nghịch sản mức độ cao; sinh thiết hạch bằng phương pháp FNA kết quả: Hạch cổ [p] + sang thương tuyến mang tai [p], Carcinom tế bào gai di căn hạch... Bác sĩ cho em hỏi sinh thiết hạch bằng FNA: Carcinom tế bào gai di căn hạch có nguy hiểm không? Ngoài việc nổi hạch ra cơ thể em rất bình thường và khoẻ mạnh, không có dấu hiệu nào bất thường hết. Em cảm ơn bác sĩ.

Khách hàng ẩn danh

Trả lờiĐược giải đáp bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Trần Ngọc Hải - Bác sĩ Ung bướu - Huyết học - Khoa Nội ung bướu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.Chào bạn,Với câu hỏi “Sinh thiết hạch bằng FNA: Carcinom tế bào gai di căn hạch có nguy hiểm không?”, bác sĩ xin giải đáp như sau:Với hạch cổ có FNA là : Carcinom tế bào gai, bạn cần đến cơ sở y tế chuyên khoa ung bướu tìm nguồn gốc bệnh để có phương pháp điều trị triệt để. Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân nổi hạch.Chữa trị sớm sẽ đạt kết quả tốt, bạn cần tích cực trong giai đoạn này.Nguyên nhân dẫn đến nổi hạch cổ có thể là một trong những nguyên nhân sau:

  1. Nổi hạch ở cổ cảnh báo tình trạng viêm nhiễm
  2. Do viêm nhiễm
  3. Do cơ địa
  4. Bệnh giang mai
  5. Lao hạch
  6. Nổi hạch ở cổ cảnh báo bệnh về máu
  7. Bệnh bạch cầu cấp
  8. Bệnh bạch cầu mạn thể lympho
  9. Hạch Hodgkin
  10. Nổi hạch ở cổ cảnh báo bệnh ung thư
  11. Ung thư hạch
  12. Ung thư di căn

Phương pháp điều trị nổi hạch ở cổ:

  • Nổi hạch ở cổ do viêm họng, viêm amidan,... kéo dài thì người bệnh chỉ cần điều trị nguyên nhân gây bệnh là hạch sẽ tự chìm xuống sau vài ngày hoặc 1-2 tuần. Nếu thấy hạch sưng đau, bệnh nhân có thể dùng đá nóng chườm để làm dịu và giúp hạch bớt sưng;
  • Nếu nghi ngờ hạch nổi do ung thư, bác sĩ có thể sử dụng máy nội soi để tầm soát khối u nguyên phát ở vùng mũi họng, thanh quản, đường tiêu hóa,... hoặc sinh thiết hạch. Trong trường hợp người bệnh được chẩn đoán mắc ung thư thì hạch đã mất đi chức năng bảo vệ cơ thể nên cần được điều trị bằng xạ trị hoặc phẫu thuật nạo vét toàn bộ hạch mang tế bào ung thư.

Nếu bạn còn thắc mắc về việc sinh thiết hạch bằng FNA: Carcinom tế bào gai di căn hạch có nguy hiểm không ,bạn có thể đến bệnh viện thuộc Hệ thống Y tế Vinmec để kiểm tra và tư vấn thêm. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Vinmec. Chúc bạn có thật nhiều sức khỏe.Trân trọng!

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số hoặc đặt lịch trực tiếp . Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

XEM THÊM:

  • Nguyên nhân và dấu hiệu ung thư tuyến giáp
  • Nguyên nhân viêm nổi hạch cổ
  • Sinh thiết hạch cổ: Khi nào cần làm?

Bài viết này được viết cho người đọc tại Sài Gòn, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Nha Trang, Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng.

Dịch vụ từ Vinmec

Bài viết liên quan

  • Các loại sinh thiết hạch bạch huyết Sinh thiết hạch bạch huyết là thủ thuật giúp kiểm tra các dấu hiệu hoặc cho biết mức độ tiến triển của một số căn bệnh, chẳng hạn như ung thư. Bác sĩ sẽ lấy ra một mảnh hạch nhỏ ... Đọc thêm

Bệnh lao hạch bạch huyết ngoại vi

Lao hạch hay lao hạch bạch huyết ngoại vi là bệnh lao ngoài phổi thường gặp ở nước ta. Lao hạch bạch huyết có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Bệnh cần phân biệt với một số bệnh khác nên ...

Ung thư cổ tử cung thường không rõ triệu chứng, tiến triển chậm khiến người bệnh chủ quan, không điều trị từ sớm, gây ra những biến chứng nghiêm trọng.

Ung thư cổ tử cung [tiếng Anh là Cervical Cancer] là bệnh lý ác tính của tế bào biểu mô lát [tế bào biểu mô vảy] hoặc tế bào biểu mô tuyến cổ tử cung phát triển bất thường dẫn đến hình thành các khối u trong cổ tử cung. Các khối u này nhân lên một cách mất kiểm soát, xâm lấn và tác động đến các cơ quan xung quanh, thường gặp nhất là di căn đến phổi, gan, bàng quang, âm đạo và trực tràng.

ThS.BS Đinh Thị Hiền Lê - khoa Phụ sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội, cho biết, ung thư cổ tử cung [UTCTC] đã và đang là mối nguy hàng đầu đe dọa sức khỏe, tính mạng của phụ nữ trên toàn cầu. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới [WHO], mỗi năm thế giới ghi nhận hơn 500.000 trường hợp mắc mới và có khoảng 250.000 ca tử vong. Ước tính đến năm 2030, số ca tử vong do căn bệnh này có thể tăng lên đến 443.000 người, gấp đôi các ca tử vong liên quan đến các tai biến sản khoa.

Riêng Việt Nam ghi nhận có hơn 4.000 ca mắc mới mỗi năm và hơn 2.000 ca tử vong. Trung bình mỗi ngày Việt Nam có 14 người phát hiện bị ung thư cổ tử cung, trong đó khoảng 7 ca tử vong. Thêm vào đó, chi phí điều trị ung thư cổ tử cung khá cao. Căn bệnh này cũng để lại hệ lụy nặng nề cho sức khỏe, tâm sinh lý và hạnh phúc của người phụ nữ.

Tùy theo loại ung thư cổ tử cung mà người bệnh được chỉ định phương pháp điều trị khác nhau.

Ung thư biểu mô tế bào gai [Squamous cell carcinoma]: là dạng ung thư bắt đầu từ các tế bào mỏng, phẳng lót phần ngoài của cổ tử cung. Theo thống kê, đây là dạng ung thư cổ tử cung phổ biến nhất, khoảng 80-85% tổng số các trường hợp, xuất hiện do nhiễm virus gây u nhú ở người [HPV].

Ung thư biểu mô tuyến [Adenocarcinoma]: là dạng ung thư xảy ra ở các tế bào tuyến dòng phần trên cổ tử cung, chiếm khoảng 10-20% tổng số các trường hợp mắc bệnh.

Các dạng ung thư cổ tử cung khác như: ung thư biểu mô tế bào nhỏ, ung thư mô liên kết - tuyến, ung thư biểu mô tuyến - tế bào gai, ung thư lympho, ung thư hắc tố... thường không có sự liên quan đến virus gây u nhú HPV, xác suất ít gặp hơn nhưng lại không thể phòng ngừa được như ung thư biểu mô tế bào gai.

Nguyên nhân

Thống kê của WHO cho thấy, khoảng 99,7% trường hợp ung thư cổ tử cung đều có sự hiện diện của virus HPV [Human Papilloma Virus]. Do đó, HPV được coi là yếu tố nguy cơ cao nhất dẫn đến việc mắc bệnh lý này ở nữ giới.

HPV là loại virus được xếp vào nhóm nguy cơ cao dẫn đến khối u ác tính cổ tử cung, phổ biến nhất là các týp 16 và 18 [nguyên nhân của hơn 70% trường hợp mắc bệnh ở nữ giới], tiếp đến là týp 31 và 45. ThS.BS Đinh Thị Hiền Lê cho biết, HPV chủ yếu lây nhiễm qua đường tình dục, một số ít trường hợp người bệnh không quan hệ tình dục, chỉ tiếp xúc ngoài da nhưng vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm. Hầu hết các trường hợp lây nhiễm HPV không có triệu chứng cụ thể, người bệnh có thể tự khỏi sau vài tháng mà không cần điều trị.

Tuy nhiên, đối với những trường hợp nhiễm týp HPV có nguy cơ cao, virus này có thể tồn tại lâu dài trong cơ thể gây biến đổi gen tế bào cổ tử cung, dẫn đến các tổn thương sơ khởi và lâu ngày tăng dần dẫn đến ung thư.

Mặc dù quá trình tiến triển đến ung thư ở vị trí này thường không có triệu chứng rõ ràng, diễn tiến chậm, kéo dài khoảng 10-15 năm nhưng một số quốc gia đã ghi nhận căn bệnh này có xu hướng trẻ hóa, đặc biệt ở những quốc gia có đời sống quan hệ tình dục sớm.

Dấu hiệu nhận biết

Theo bác sĩ Hiền Lê, các triệu chứng ban đầu của khối u ác tính vùng cổ tử cung không rõ ràng, tiến triển thầm lặng, người bệnh khó nhận biết. Khi các triệu chứng xuất hiện rõ ràng hơn đồng nghĩa với việc tế bào ung thư đã di căn lan rộng. Các can thiệp điều trị lúc này vẫn có thể phát huy được hiệu quả nhưng khá phức tạp và tốn nhiều chi phí. Trong trường hợp xấu nhất, phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ cắt bỏ toàn bộ tử cung, buồng trứng, các hạch bạch huyết lân cận, ảnh hưởng đến thiên chức làm mẹ.

Một số dấu hiệu giúp nhận biết gồm: đau rát vùng chậu hoặc đau khi quan hệ tình dục; chảy máu âm đạo bất thường, nhất là sau khi quan hệ tình dục, giữa các kỳ kinh nguyệt, sau mãn kinh hoặc sau khi khám phụ khoa; dịch tiết âm đạo bất thường, có thể tiết nhiều hơn, có màu xám đục và có mùi hôi.

Đau rát vùng chậu hoặc đau khi quan hệ tình dục có thể là dấu hiệu sớm của ung thư cổ tử cung. Ảnh: Shutterstock

Các giai đoạn

Thông thường, bệnh lý phát triển qua các giai đoạn:

Giai đoạn 0: Giai đoạn này chưa có tế bào ung thư ở cổ tử cung, bắt đầu xuất hiện các tế bào bất thường và có thể phát triển thành tế bào ung thư trong tương lai. Do đó, giai đoạn này được gọi là tiền ung thư hoặc ung thư biểu mô tại chỗ.

Giai đoạn I: Ung thư chỉ mới xảy ra ở bên trong cổ tử cung.

Giai đoạn II: Ung thư đã bắt đầu lan ra bên ngoài cổ tử cung, xâm lấn vào các mô xung quanh nhưng chưa đến các mô lót trong khung chậu hoặc phần dưới của âm đạo.

Giai đoạn III: Các tế bào ung thư đã xâm lấn vào phần dưới của âm đạo và các mô lót trong khung chậu.

Giai đoạn IV: Ung thư di căn đến các cơ quan khác trong cơ thể, như: ruột, bàng quang, phổi...

Các giai đoạn của u cổ tử cung. Ảnh: Shutterstock

Biến chứng nguy hiểm

Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, ung thư cổ tử cung có thể tiến triển xấu, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm, đe dọa sức khỏe và tính mạng của người bệnh.

Vô sinh: Các khối u xâm lấn và tác động đến cổ tử cung - nơi tinh trùng và trứng gặp nhau. Trong một số trường hợp, để điều trị dứt điểm bệnh, đảm bảo tính mạng người bệnh đòi hỏi phải cắt toàn bộ tử cung và buồng trứng, điều này đồng nghĩa với việc phụ nữ mất đi thiên chức làm mẹ. Thêm vào đó, việc cắt buồng trứng có thể khiến quá trình mãn kinh diễn ra sớm hơn.

Ảnh hưởng tâm sinh lý: bệnh gây rối loạn cảm xúc, nhiều trường hợp người bệnh bị trầm cảm, tan vỡ hạnh phúc gia đình.

Chảy máu bất thường: Trường hợp các khối u xâm lấn vào âm đạo, hoặc di căn đến ruột, bàng quang có thể gây chảy máu, người bệnh đi tiểu có lẫn máu.

Suy thận: Một số nghiên cứu chỉ ra rằng các khối u có thể chen vào niệu quản, làm tắc dòng nước tiểu ra khỏi thận. Khi nước tiểu tích tụ lâu ngày sẽ khiến thận sưng lên, nguy cơ gây sỏi thận và suy giảm chức năng thận.

Ung thư cổ tử cung có thể dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng hạnh phúc gia đình. Ảnh: Shutterstock

"Khối u ác tính cổ tử cung nếu được phát hiện sớm, ngay từ giai đoạn tiền ung thư thì tỷ lệ chữa khỏi có thể lên đến hơn 90%. Ở giai đoạn I, tỷ lệ điều trị thành công vào khoảng 85-90% và giảm dần ở các giai đoạn sau. Đến giai đoạn II giảm còn 50-75%, giai đoạn III là 25-40%, ở giai đoạn IV chỉ còn 15%, tiên lượng người bệnh chỉ kéo dài sự sống thêm 5 năm", ThS.BS Đinh Thị Hiền Lê nhấn mạnh.

Đối tượng có nguy cơ cao

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, một số yếu tố làm khả năng thay đổi từ tế bào lành tính sang tế bào ung thư, tăng nguy cơ mắc khối u cổ tử cung ở nữ giới có nhiều bạn tình, quan hệ tình dục sớm, mang thai quá sớm [trước 17 tuổi] hoặc mang thai nhiều lần [lớn hơn 4 lần]; nữ giới mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác [như chlamydia, giang mai, HIV/AIDS...]; nữ giới có hệ miễn dịch suy yếu và hút thuốc lá...

ThS.BS Đinh Thị Hiền Lê cho biết, việc quan hệ tình dục sớm hoặc quan hệ không an toàn làm tăng nguy cơ mắc bệnh lý này. Ảnh: Thanh Thúy

Chẩn đoán

Thông qua quá trình khám lâm sàng, hỏi bệnh sử, nếu nghi ngờ người bệnh có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện một số xét nghiệm cần thiết.

Soi cổ tử cung

Phương pháp chẩn đoán này được sử dụng trong trường hợp người bệnh có kết quả xét nghiệm sàng lọc cổ tử cung bất thường, hoặc có một trong các triệu chứng ung thư cổ tử cung. Mục đích của phương pháp này nhằm phát hiện những bất thường trong cổ tử cung của người bệnh.

Bác sĩ sẽ sử dụng mỏ vịt để mở âm đạo, dùng một kính hiển vi nhỏ có đèn chiếu sáng để quan sát cổ tử cung. Trường hợp người bệnh bị chảy máu thất thường, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện xét nghiệm chlamydia trước khi soi cổ tử cung.

Sinh thiết cổ tử cung

Bác sĩ có thể lấy một mẫu mô nhỏ [sinh thiết] để kiểm tra, phát hiện các tế bào ung thư. Quá trình này có thể khiến người bệnh bị chảy máu âm đạo kéo dài, tối đa là 6 tuần. Người bệnh cũng có thể có triệu chứng đau giống như vào chu kỳ kinh nguyệt.

"Trong hầu hết các trường hợp, những bất thường chỉ mới được phát hiện ở một phương pháp chẩn đoán nào đó chưa đủ để kết luận bệnh nhân có mắc ung thư ở vùng cổ tử cung hay không. Thông thường, bệnh nhân sẽ được chỉ định thực hiện thêm một số xét nghiệm phụ khoa bổ sung", ThS.BS Đinh Thị Hiền Lê nói thêm.

Các xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh bổ sung

Khi kết quả soi cổ tử cung hoặc sinh thiết cho thấy những tế bào bất thường, người bệnh có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung thì vẫn cần thực hiện thêm một số kiểm tra bổ sung như:

Kiểm tra vùng chậu: phương pháp này được thực hiện sau khi gây mê tổng quát, bác sĩ sẽ lần lượt kiểm tra tế bào ung thư ở các cơ quan của người bệnh như tử cung, âm đạo, bàng quang và trực tràng.

Xét nghiệm máu: nhằm đánh giá tình trạng và mức độ tổn thương gan, thận và tủy xương của người bệnh.

Chụp cắt lớp vi tính [CT] và cộng hưởng từ [MRI]: phương pháp này được sử dụng trong các trường hợp muốn xác định khối u, thăm dò mức độ xâm lấn và di căn của các tế bào bất thường.

Chụp X-quang phổi: nhằm kiểm tra tế bào ung thư đã di căn đến phổi chưa.

Chụp PET-CT: phương pháp này thường được kết hợp với chụp CT nhằm xác định xem ung thư đã di căn hay chưa, đồng thời thăm dò khả năng đáp ứng của người bệnh với các phương pháp điều trị.

Từ kết quả kiểm tra cận lâm sàng kết hợp với khám lâm sàng, bác sĩ sẽ đưa ra chẩn đoán chính xác ung thư đang ở giai đoạn nào và đề xuất phương pháp điều trị để tránh các biến chứng nguy hiểm.

Chủ Đề