Việt nam có bao nhiêu tôn giáo site vn.answers.yahoo.com năm 2024

Trong vài năm qua, Yahoo đã lần lượt đóng hết các dịch vụ từ thời hoàng kim. Từ Messenger năm 2018 đến Yahoo Groups cuối năm 2020, sự ra đi của Yahoo Answers [Yahoo Hỏi Đáp] dường như đã được đoán định trước.

Việc Yahoo ấn định ngày đóng cửa và xóa hết toàn bộ dữ liệu của mục Hỏi Đáp vào ngày 04/05 chỉ như một thời khắc đếm ngược đến ngày cáo chung mà thôi.

Yahoo Hỏi Đáp cố gắng sống lay lắt cho đến ngày hôm nay, một phần là nhờ Điều luật 230 ban hành năm 1996 của Mỹ, bảo vệ các công ty Internet như Yahoo khỏi các nội dung do người dùng tự ý đăng tải. Tuy nhiên, đạo luật này chẳng thể bảo vệ Yahoo khỏi sự xuống cấp từ bên trong.

Yahoo Hỏi Đáp chỉ toàn những câu hỏi ngô nghê, nhưng nó vẫn không đáng sợ bằng những câu hỏi của người dùng Việt Nam.

Thực tế, trước khi đi đến bước đường cùng, Yahoo Hỏi Đáp cùng một loạt các dịch vụ của Yahoo đã rơi vào tình trạng ‘đem con bỏ chợ’. Chậm cập nhật, thiếu sáng tạo và lỗi bung bét đã khiến người dùng quay lưng với các sản phẩm của Yahoo. Và Yahoo Hỏi Đáp không phải một ngoại lệ.

Ở thời đỉnh cao, 200 triệu người dùng giúp các câu hỏi của Yahoo Hỏi Đáp đạt được thứ hạng tìm kiếm [SEO] trả về rất tốt, nhờ đó liên tục thăng hạng tìm kiếm và tăng lượng truy cập hàng ngày. Tuy nhiên, khoảng thời gian đó không kéo dài lâu khi Yahoo không có chính sách rõ ràng với nền tảng Q&A này.

Giờ đây, tại nước ngoài cũng như Việt Nam, Yahoo Hỏi Đáp đầy rẫy những câu hỏi ngô nghê, đôi khi mang đầy màu sắc chính trị, bạo lực, khiêu dâm… Giá trị mà Yahoo Hỏi đáp đem lại với cộng đồng chỉ là con số 0 tròn trĩnh.

Để đi đến cái kết của Yahoo Hỏi Đáp như ngày hôm nay, đầu tiên trách nhiệm lớn nhất phải thuộc về Ban lãnh đạo công ty. Dịch vụ này được xây dựng như một cộng đồng tự hỏi và trả lời, mà nội dung trong đó do người dùng tự chịu trách nhiệm.

Tám đời lãnh đạo Yahoo đã không thể làm gì để giúp công ty đi đúng hướng. [Ảnh: CEO cuối cùng của Yahoo, Marissa Mayer]

Bởi không có sự quản lý, cộng đồng này bắt đầu ngập tràn những câu hỏi mang tính vô bổ độc hại được đăng tải tràn lan bởi người dùng ẩn danh. Yahoo đã thất bại trong việc xây dựng thuật toán để quản lý và hiển thị những câu hỏi cùng câu trả lời có giá trị, dẫn tới việc bỏ mặc Hỏi Đáp từ khoảng giữa thập niên 2010.

Vì thế, thất bại của Yahoo Hỏi Đáp cũng như các dịch vụ khác của Yahoo có phần rất lớn của Ban lãnh đạo trong việc định hướng, xây dựng và phát triển nội dung trên sản phẩm. Cho dù, Yahoo Hỏi Đáp đã có lịch sử ra đời rất sớm so với các đối thủ cạnh tranh khác.

Ở góc độ khách quan, Yahoo Hỏi Đáp đã chết bởi sự nổi lên của nhiều sản phẩm dịch vụ khác. Đối thủ cạnh tranh trực tiếp là Quora, dù sinh sau đẻ muộn nhưng giờ đây đã phát triển được một kho nội dung phong phú chất lượng với sự đóng góp của người dùng có kiến thức và danh tính thật.

Ngoài ra, sự nổi lên của một số diễn đàn như Reddit, nơi tập hợp nhiều bài viết chia sẻ các kiến thức xoay quanh những vấn đề của cuộc sống cũng khiến cho mảnh đất Yahoo Hỏi Đáp càng ngày càng vắng bóng người dùng thật.

Quora hiện có khoảng 300 triệu người dùng hàng tháng, Reddit là 430 triệu thành viên hoạt động thường xuyên. Vì thế, ngày đóng cửa vĩnh viễn của Yahoo Hỏi Đáp vào 04/05 tới đây là một điều tất yếu.

Nhiều vị sư Miến Điện dưới hướng dẫn của 2 ngài trưởng lão Nandicakka and Candavisaala, đã tới Kandy [thủ đô vương triều Sri Lanka] và trong năm 1597 trao lễ thọ giới ở Udakukkhepa Siimaa tại Getambe, gần Kandy. Vua cũng xây một bảo tháp, và mang trở về Xá Lợi Răng Phật [trong thời chinh chiến được giấu ở Delgamuvihaara] thờ.

Kế vị vua Vimala Dharmasuriya là Senarat. Người Bồ Đào Nha lại đưa quân tiến chiếm vùng Kandy, vua Senarat mang Xá Lợi Răng Phật chạy tới Mahiyangana. Kế vị Senarat là vua Raajasinha II [1634-1687], người đã dùng binh lực, với hỗ trợ của binh lực người Hòa Lan, đã khởi dậy cuộc chiến kéo dài hai thập niên và xua đuổi người Bồ Đào Nha ra khỏi cả các tỉnh ven biển Sri Lanka vào tháng 6-1658. Vua thưởng công người Hòa Lan bằng cách cho họ chiếm giữ các tỉnh trước kia do người Bồ Đaò Nha chiếm.

Người Hòa Lan truyền đạo Tin Lành [hệ phái Protestant Christianity], nhưng rút kinh nghiệm người Bồ Đào Nha nên có chính sách hòa bình với vương triều và dân Sri Lanka. Họ giúp đưa hai phaí đoàn sắc tộc Sinhalese tới Siam [bây giờ là Thái Lan] để thỉnh các vị sư tới giúp xây dựng Tăng đoàn ở Sri Lanka.

Tuy nhiên, người Hòa Lan thiết lập một hệ thống giáo dục chặt chẽ trên đất họ cai trị [các tỉnh ven biển]: trường học cũng là nhà thờ, thầy giáo và là thầy dạy vừa là mục sư giảng đạo. Thánh lễ thực hiện ngay ở trường, khai sinh và khai tử đều làm giấy tờ và nghi lễ theo Tin Lành.

Không một ai được chọn làm công chức, chỉ trừ người có đaọ Thiên Chúa. Chỉ có người theo đạo Thiên Chúa mới được xem là kết hôn hợp pháp hay sinh con hợp pháp.

Vì hệ thống giáo dục quá rộng lớn, họ phải thuê người Sinhalese làm giáó viên và truyền đaọ viên. Rất nhiều người bề ngoài là Tin Lành nhưng trong tâm là Phật giáo, mục đích là để đăng ký các lễ kết hôn, làm giấy khai sinh cho con đi học, và bản thân họ được làm công chức. Trong thời kỳ này, Phật giáo không bị đàn áp bằng bạo lực.

Trong khi người Hòa Lan chiếm các tỉnh ven biển, các vua sắc tộc Sinhales ở các tỉnh nội địa lo hồi phục Phật giáo. Một trong số đó là vua Vimala Dharmasuriya II [1687-1706], con trai và là người kế vị vua Raajasinha II. Thấy rằng đất nước không còn tới 5 vị sư, vua gửi một pháí đoàn tới Arakan [Miến Điện], xin thỉnh các sư Miến Điện sang giúp. Nhờ đó, một lễ thọ Cụ túc giới thực hiện ở Getambe, ngay nơi đã có lễ tương tự trước đó thực hiện ở triêù vua Vimala Dharmasuriya I. Trong lễ này, 33 Sa-di thọ giới để trở thành tăng sĩ, và 120 người khác thọ giới Sa-di.

Trải qua nhiều thập niên, Tăng đoàn lại suy yếu vì nhiều lý do khác nhau. Tới triều vua Sri Vijaya Raajasinha [1739-1747], thấy rằng Tăng đoàn gần như biến mất trên đảo quốc đầy niềm tin Phật giáo naỳ, vua gửi 2 pháí đoàn sang Tháí Lan. Người Hòa Lan cho mượn một chiếc thuyền để chở phaí đoàn. Chuyến đi đầu tiên bị chìm tàu. Chuyến thứ nhì chưa về thì vua đã chết.

Nối ngôi Sri Vijaya Raajasinha là vua King Kirti Sri Raajasinha, khi đó không còn một vị sư nào trên toàn bộ hải đaỏ Sri Lanka thọ giới pháp đầy đủ. Tuy là có nhiều Sa-di [tức là, saamaneras], nhưng đa số không có đời sống gương mẫu của tăng sĩ. Họ không học Giới Luật, Giáp Pháp, mà chạy đua học chiêm tinh, y khoa chữa bệnh, thờ chư thần, sống bê bối tai tiếng, trồng trọt và cả mua bán giao thương. Các Sa-di hưởng lợi từ sự bao cấp rộng rãi của vua quan.

Vua Kirti Sri Raajasinha gửi một phái đoàn sang thăm vua King Dhammika của Siam [Thái Lan] nhờ tái thiết lập Tăng đoàn ở Sri Lanka. Hàng trăm vị thọ Cụ túc giới, tu học nghiêm chỉnh. Vua ban hành bộ ứng xử về giới luật đối với các vị sư. Thời kỳ này, nền văn học Phật giáo phát triển mạnh mẽ.

Nối ngôi vua King Kirti Sri Raajasinha là người em, tên là Raajaadhi Raajasinha – vua này là một học giả nhiều ngôn ngữ, tiếng Pali [Nam Phạn], tiếng Sanskrit [Bắc Phạn], và tiếng Sinhalese. Vua có nhiều bài thơ xuất sắc viết bằng ngôn ngữ Sinhalese, và tiến hành nhiều phương tiện hoằng pháp cho Phật giáo. Cháu trai vua này là Sri Vikrama Raajasinha, người lên kế vị và là vị vua cuối cùng của Lanka.

Vào năm 1796, trong thời vua Raajaadhi Raajasinha, người Hòa Lan thua trận nên nộp những vùng lãnh thổ của họ cho thực dân Anh. Thống đốc Anh đầu tiên là Sir Frederick North.

Vào tháng 1-1815, một đạọ binh Anh tiến vào thủ đô Kandy và bắt sống vua của sắc tộc Sinhalese. Vào ngày 2 tháng 3-1815, trong một đạị hội các quan tướng, tộc trưởng và tăng sĩ, nhà vua chính thức bị truất ngôi, và toàn bộ lãnh thổ Sri Lanka trở thành thuộc địa Anh Quốc.

Như thế, kết thúc cuộc chiến của dân tộc Sinhalese đã đương cự với quân Bồ Đào Nha, quân Hòa Lan, và một thời gian với quân Anh. Và cũng kết thúc dòng vua trị vì Sri Lanka kéo dài tới 2301 năm, kể từ vị vua Vijaya lập quốc năm 486 trước công nguyên. Và phải chờ tới năm 1948, Sri Lanka mới thoát ách cai trị của người Anh, tuyên bố độc lập.

Trong hiệp ước đầu hàng ngày 2-3-1815, có một điểu khoản ghi rằng đất nước Sri Lanka thuộc về người Anh với điều kiện người Anh tôn trọng Phật Giáó, phải xem các nghi lễ Phật giáo là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.Thực tế, người Anh không tuân giữ cam kết này.

Người Anh đưa chính sách ở các tỉnh ven biển áp đặt lên toàn bộ Sri Lanka, ưu đãi tín đồ Thiên Chúa giáo và tăng tốc giáo dục, truyền đạo. Ảnh hưởng lớn nhất là các hội thánh Tin Lành Baptists, từ năm 1792; rồi Hội Thánh Wesleyan Methodists, từ năm 1814; Tin Lành Americans, từ năm 1816; và Church of England [Anh Giáo], từ năm 1818.

Các trụ sở hội thánh vừa là nhà thờ, vừa là trường học. Công chức chỉ tuyển từ người đã học ở các trường này, nơi trẻ em học Kinh Thánh, và là nơi Phật giáo bị chế giễu công khai, xem tôn giaó của ba mẹ các em là đạọ của những đám đông lạc hậu.

Các hệ phái Thiên Chúa giáo cũng mở trường dạy nữ sinh, trong đó có những trường nội trú và tu viện giành cho thiếu nữ.

Thống kê năm 1886 cho thấy, trên toàn quốc Sri Lanka, Phật giáo có 12 trường học, Ấn giáo có 5 trường, tư thục có 25 trường, năm hệ pháí Thiên Chúa giáo có tổng cộng 806 trường.

Lấy ký hiệu cho trường dạy tiếng Anh là A, dạy song ngữ là SN, dạy bản ngữ Sinhalese là S, chúng ta có bảng thống kê 1886 như sau:

TRƯỜNG HỌC Ở SRI LANKA NĂM 1886

Tin Lành Wesley Miss.: 18 A, 18 SN, 170 S, tổng cộng 206 trường. Công giáo La Mã: 25 A, 5 SN, 175 S, tổng cộng 205 trường. Tin Lành C.M.S.: 28 A, 18 SN, 178 S, tổng cộng 224 trường. Tin Lành Amer. Miss: 8 A, 9 SN, 116 S, tổng cộng 133 trường. Tin Lành Baptist: 1 A, 5 SN, 32 S, tổng cộng 38 trường. Trường tư: 7 A, 5 SN, 13 S, tổng cộng 25 trường. Ấn giáo: 5 S, tổng cộng 5 trường. Phật giáo: 1 SN, 11 S, tổng cộng 12 trường.

Các linh mục, mục sư cũng nghiên cứu và viết sách về Phật giáo, dùng tiếng bản ngữ Sinhalese in sách, ra báo chỉ trích Phật giáo, đi khắp các làng trao tặng sách đả kích Phật giáo và tung hô Thiên Chúa giáo.

Vào khoảng năm 1860, có một Sa-di trẻ, tên là Mohottiwatte Gunaananda đứng ra thách thức các tu sĩ Thiên Chúa giáo tranh luận công khai. Vị Sa-di trẻ này đã học ở trường đaọ, nên thuộc cả Kinh Thánh bên cạnh Kinh điển Phật giáo. Sa-di này cũng làm như các tu sĩ Thiên Chúa giáo, đi khắp các làng nói chuyện, kể cả trong các xóm đạọ. Nhiều ngàn người tìm nghe vị Sa-di này thuyết pháp, tranh luận.

Các tu sĩ Thiên Chúa giáo thấy tác động quẩn chúng lớn, nên chấp nhận 3 cuộc tranh luận công khai: một ở Udanvita vào năm 1866, một ở Gampola năm 1871 và cuối cùng ở Panadura năm 1873.

Cuộc tranh luận ở Panadura kéo dài 1 tuần lễ, là quan trọng nhất. Đó là cao điểm nỗ lực của vị Sa-di trẻ và đã đánh thức một phong trào học Phật rộng lớn.

Tranh luận tổ chức với hiện diện của các Phật Tử và giáó dân hàng đầu của sắc tộc Sinhalese. Tờ báo Anh ngữ hàng đầu lúc đó là The Ceylon Times gửi đặc pháí viên tường thuật hàng ngaỳ, kèm theo các bài nói chuyện của các diễn giả đã sửa lỗi do chính các diễn giả in trên báo Anh ngữ này.

Tranh luận kết thúc bằng chiến thắng của các Phật Tử, không chỉ nêu rõ các lý luận và niềm tin hoang tưởng của các diễn giả Thiên Chúa, mà cũng nêu bật giaó lý Phật giáo. Khi các diễn giả Thiên Chúa rút lui, Phật Tử tưng bừng vui mừng. Lễ hội tổ chức khắp các chùa để mừng chiến thắng, và hình nộm của ngài Gunaananda được rước từ làng này qua làng kia.

Một học giả Hoa Kỳ tên là Dr. Peebles có mặt ở Sri Lanka vào lúc diễn ra cuộc tranh luận Panadura, đã viết lại diễn tiến tranh luận này trong một cuốn sách khi về lại Hoa Kỳ. Đại tá Henry Steele Olcott đầu tiên chú ý về Phật giáo nhờ đọc cuốn sách này trong một thư viện công cộng ở Mỹ. Olcott sinh ở Hoa Kỳ, thời trẻ là một nông dân thành công, và vào quân đội, trở thành đaị tá của cả hải quân và bộ binh. Vào năm 43 tuổi, lúc đó là năm 1875, ông rời mọi chuyện thế gian để cùng bà Madame Blavatsky sáng lập hội Theosophical Society để nghiên cứu về tất cả các tôn giaó. Đọc về cuộc tranh luận Panadura, ông thấy tầm quan trọng của Phật Pháp, và năm 1880 ông cùng bà Madame Blavatsky tới Sri Lanka để trực tiếp nghiên cứu Phật giáo. Chính nơi đây, ông trở thành Phật Tử và hoạt động cho Phật giáo tại Sri Lanka.

Olcotte trình bày với các lãnh đạọ Phật giáo Sri Lanka rằng cần phải ưu tiên cho nền giáo dục Phật học. Dưới hướng dẫn và lãnh đaọ của Olcott, và với hỗ trợ từ tất cả các nhà sư, các cư sĩ tại Sri Lanka thiết lập hội Buddhist Theosophical Society vaò ngày 17-6-1880. Mục tiêu chính của hội là thiết lập các trường học Phật giáo, và mang tất cả công nhân Phật tử vào một tổ chức mà không phân biệt giai cấp, thành phần, chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi Phật tử ở Sri Lanka.

Khi Olcott tới Sri Lanka, lúc đó chỉ có 3 trường Phật giáo được chính phủ tài trợ ngân sách. Năm 1897, tức 12 năm sau khi hộị này hoạt động, có 25 trường nam sinh, 11 trường nữ sinh, và 10 trường hỗn hợp nam nữ do hội thành lập. Năm 1903, có 174 trường dưới quản trị của hội, và học sinh lên tới 30,000 trẻ em. Năm 1940, số lượng trường tăng tới 429 trường.

Hội cũng thành lập một tờ báo viết bằng tiếng Sinhalese, tờ Sarasavisandarasa, vào tháng 12-1880, và sau đó làm tờ phụ bản Anh ngữ, tờ The Buddhist, bây giờ là nguyệt san của hội YMBA, tại Colombo.

Cũng chính Đạị Tá Olcott đã vận động giành lại cho Phật Tử Sri Lanka quyền làm các lễ hội Phật giáo và ngày trăng tròn Vesak được tuyên bố là ngaỳ lễ toàn quốc. Lá cờ Phật giáo cũng do Olcott vẽ ra.

Bên cạnh đó, còn có các nỗ lực khác của vị học giả biện tài Mohottivatte Gunaananda Thera và các thân hữu. Họ lập một nhà xuất bản chuyên trả lời các chỉ trích từ người Thiên Chúa giáo, và in sách về nghiên cứu Phật học. Do vậy, nhà xuất bản đầu tiên kiểm soát bởi Phật Tử Sinhalese xuất hiện năm 1862, với tên Lankopakaara Press, là hiến tặng của Vua Thái Lan. Trong cùng năm, Mohottivatte Gunaananda Thera lập nhà xuất bản Sarvajña-saasanaabhivurddhi-daayaka Press tại Kotahena, gần Colombo. Kế tiếp, là các nhà xuất bản Lakrivikirana Press lập năm 1863, và Lankabhinavavisruta Press năm 1864. Phong trào học Phật sôi nổi khắp nơi. Thời kỳ này, có nhiều học giả Phương Tây tới để nghiên cứu Phật giáo.

Năm 1948, Sri Lanka tuyên bố độc lập, kết thúc thời kỳ 133 năm làm thuộc địa của Vương Quốc Anh. Cuộc chiến đấu giành độc lập cam go đã gắn bó các nhà hoạt động Phật Giáó với phong trào gây ý thức dân tộc tự chủ.

Những ngày nghỉ cuối tuần, trước kia là chủ Nhật, kể từ năm 1966 được chính phủ đổi thành bốn ngày Poya trong tháng [tức là, ngày trăng tròn, ngày trăng mới mọc, và hai ngày trăng mọc hay tàn ¼ -- i.e., full and new moon, and the two quarter moon days]. Tất cả các chùa tại Sri Lanka đều có trường dạy Phật Pháp cho trẻ em vào các ngày Poya này [khi còn người Anh, là dạy các ngày Chủ Nhật]. Bộ Văn Hóa Sri Lanka cung cấp sách học cho trẻ em, và trao giaỉ thưởng cho các trẻ em có điểm thi xuất sắc các kỳ khảo sát Phật học.

Phần trên, chúng ta đã khảo sát về trường hợp Phật giáo thăng trầm ở Nhật Bản và Sri Lanka.

Phật giáo Việt Nam sẽ học được bài học nào từ hai trường hợp trên? Đó là câu hỏi chung cho mọi người quan tâm vậy.

Chủ Đề