Lí luận văn học về chức năng thẩm mĩ của văn học

Tóm tắt nội dung tài liệu

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thị Gấm
_____________________________________________________________________________________________________________




BẢN CHẤT THẨM MĨ CỦA VĂN HỌC TRONG GIÁO TRÌNH
LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1960 ĐẾN NAY
LÊ THỊ GẤM*

TÓM TẮT
Từ năm 1960 đến nay, lịch sử biên soạn giáo trình lí luận văn học [LLVH] [bậc đại
học] đã trải qua hơn 50 năm. Đấy cũng là chặng đường hình thành và phát triển của
LLVH Việt Nam với tư cách là một ngành khoa học. Nghiên cứu giáo trình LLVH bậc đại
học, chúng tôi nhận thấy những chuyển biến đáng ghi nhận trong quan niệm về bản chất
và đặc trưng của văn học, đặc biệt là bản chất thẩm mĩ. Thành tựu này đã góp phần vào sự
phát triển của nền LLVH Việt Nam hiện đại.
Từ khóa: lí luận văn học, giáo trình lí luận văn học, bản chất thẩm mĩ của văn học, lí
tưởng thẩm mĩ, hình tượng nghệ thuật.
ABSTRACT
The aesthetic nature of literature in literary theory textbooks in Vietnam since 1960
The compilation of literary theory textbooks [for undergraduate level] has a history
of 50 years, starting from 1960. This is also the history of development of Vietnam’s
literary theory as a field of science. Examining literary theory textbooks for undergraduate
level, the researcher identifies noticeable shifts in the conception of literary’s nature and
features, especially the aesthetic nature. This achievement has contributed to the
development of Vietnam’s modern literary theory.
Keywords: literary theory, literary theory textbook, the aesthetic nature of literature,
aesthetic ideal, art image.

1. Đặt vấn đề các tác giả đã nhìn nhận tồn tại văn học
Hơn 50 hình thành và phát triển [từ trong thế hòa quyện, cân đối ba mặt: xã
1960 đến nay], đặc biệt từ năm 1986 đến hội, thẩm mĩ và ngôn từ. Vai trò của nhà
nay, giáo trình LLVH ở Việt Nam đã có văn đối với xã hội và vấn đề dân chủ
những đổi mới đáng ghi nhận trong quan nghệ thuật cũng được gợi mở. Trong
niệm về bản chất và đặc trưng văn học. khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập
Trước năm 1986, các tác giả giáo trình trung xem xét quá trình chuyển biến quan
chỉ tập trung nhìn nhận, khẳng định bản niệm ở các giáo trình cơ sở LLVH bậc
chất xã hội của văn học. Bản chất thẩm đại học từ 1960 đến nay về vấn để bản
mĩ và bản chất ngôn ngữ không được chất thẩm mĩ.
đánh giá thỏa đáng. Từ năm 1986 đến
nay, với tinh thần khoa học khách quan,

*
ThS, Trường Đại học Văn Lang; Email:



61
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 4[69] năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________




2. Bản chất thẩm mĩ của văn học sống. Lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn đồng
trong giáo trình lí luận văn học trước nhất với lí tưởng xã hội. Từ quan niệm
1986 như vậy, khi bàn về vấn đề thẩm mĩ trong
“Kiến tạo được một khoa học về văn học, các tác giả chỉ chú trọng đề cập
lĩnh vực này hay lĩnh vực kia của sáng hai phương diện là hình tượng nghệ thuật
tạo văn hóa mà vẫn giữ được toàn bộ tính và điển hình nghệ thuật.
phức tạp, thể hoàn chỉnh và đặc thù của Hình tượng nghệ thuật được quan
đối tượng là công việc hết sức khó khăn”. niệm như là một phương thức phản ánh
Vì vậy, “ở những nơi mà điều kiện cho thực tại đặc thù của văn học, và là
một khoa học thực thụ chưa thật chín phương tiện chuyên chở ý thức chính trị,
muồi” hay ở những nơi mà người làm tình cảm xã hội của nhà văn. Nguyễn
khoa học đi theo sự nôn nóng, sự thiên Lương Ngọc viết trong Sơ thảo nguyên lí
lệch của tình hình lịch sử xã hội về bất cứ văn học [1961]: “Hình tượng nghệ thuật
phương diện nào của văn học “thường là hình thức đặc biệt của văn học nghệ
dẫn đến việc hạ thấp đến cực độ mặt thuật để phản ánh hiện thực, phản ánh
bằng của những vấn đề, đến việc nghèo cuộc sống của con người, do nghệ sĩ nhận
nàn hóa đối tượng cần được nghiên cứu thức được, và biểu hiện lên” [7, tr.209].
và thậm chí đánh tráo nó – trong trường Hai tác giả Lê Bá Hán, Hà Minh Đức
hợp của chúng ta là đánh tráo sáng tạo cũng có nhận định tương tự trong Cơ sở
nghệ thuật – bằng một cái gì đó hoàn lí luận văn học [1976]: Hình tượng “đó là
toàn khác”. Những nhận định như vậy sự nhận thức, phản ánh thực tại với “hình
của M. Bakhtin, trong Vấn đề nội dung, thức của đời sống”, là sự tái hiện thực tại
chất liệu và hình thức trong sáng tạo bằng hình thức trực tiếp, cụ thể - cảm
nghệ thuật ngôn từ, về những thiếu sót tính và truyền cảm”. Mục đích của văn
khoa học của trường phái thi pháp học học nghệ thuật là, “bằng phương tiện của
Nga thế kỉ XX, cũng đúng với trường mình”, “dựng lên những bức tranh của
hợp LLVH nước ta từ những năm 1960 đời sống” hoặc khơi dậy trong lòng người
đến trước đổi mới [1]. Thời kì này, do đọc “những ý nghĩ đối với đời sống” [6,
yêu cầu của lịch sử và những hạn chế tr.136]. Nhờ đó, “bản chất xã hội của
khoa học, những người làm công tác nghệ thuật được bộc lộ” [6, tr.134].
nghiên cứu, biên soạn giáo trình lí luận Năm 1980, khi đã có độ lùi thời
đã không nhìn nhận các yếu tố thẩm mĩ là gian nhất định để chiêm nghiệm vấn đề,
đặc trưng của tồn tại văn học; nhấn mạnh Bùi Ngọc Trác, trong Cơ sở lí luận văn
chức năng nhận thức, chức năng giáo dục học, nhận thấy ở hình tượng nghệ thuật
ý thức xã hội và ý thức chính trị hơn là không chỉ có hiện thực được phản ánh,
chức năng định hướng thẩm mĩ. Theo đó, mà còn hàm chứa trong nó nội dung thẩm
cái đẹp trong tác phẩm, phải xuất phát từ mĩ. Ông nhấn mạnh: “Hình tượng nghệ
cái đẹp nguồn cội của nó là hiện thực đời thuật không chỉ là một phạm trù nhận

62
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thị Gấm
_____________________________________________________________________________________________________________




thức luận mà còn là một phạm trù thẩm trong quan niệm của các giáo trình trước
mĩ nữa” [8, tr.280]. Là một loại hình ý 1986, là khái niệm chỉ “chất lượng của sự
thức xã hội thẩm mĩ, văn học phản ánh phản ánh” của hình tượng. Nó “chỉ sự sâu
hiện thực nhưng “không phải là bức ảnh sắc, sự rộng lớn và sức mạnh của hình
chụp hiện thực, mà là sự tái hiện hiện tượng” [7, tr.221] và phải “nói lên được
thực một cách sáng tạo” [8, tr.285]. Do tính quy luật của cuộc sống” [8, tr.320].
vậy, chúng ta “cần phải gạt bỏ cách hiểu Thông qua hình tượng điển hình, có
những khái niệm “miêu tả” và “biểu thể thấy được thế giới quan và ý thức
hiện” như trước đây nhiều người quan chính trị của nhà văn. Giáo trình Cơ sở lí
niệm là “làm hiện ra rõ rệt bức tranh của luận văn học [1976] viết: “Điển hình hóa
hiện thực” [7, tr.284]. Bởi vì, theo ông: bao giờ cũng gắn liền quan điểm chính trị
“Ý nghĩa thẩm mĩ của khái niệm “miêu và xã hội của nhà văn”; “Quá trình điển
tả” và “biểu hiện” vượt ra ngoài khuôn hình hóa là quá trình thâm nhập, đồng
khổ của sự bộc lộ có tính chất hình thức hóa hiện thực bằng nghệ thuật, là quá
lẻ tẻ, rời rạc của những khái niệm này” trình thể nghiệm sâu sắc ý thức chính trị
[8, tr.285]. Dù có một số điểm mới nhưng của nhà văn trong sáng tác. Vai trò của
ý kiến này cơ bản chưa thể thoát khỏi thế giới quan có một tầm quan trọng đặc
khung thẩm mĩ của thời đại. Trang 287, biệt trong việc điển hình hóa” [6, tr.174].
tác giả viết: “Hình tượng nghệ thuật sẽ Vì vậy, muốn xây dựng được điển hình
mất đi những phẩm chất cơ bản của nó nghệ thuật, nhà văn trước hết phải xây
nếu không chứa đựng tư tưởng - thẩm mĩ dựng cho mình một thế giới tiến bộ là
mà cuộc sống cung cấp cho”. Mặt khác, đứng về phía cuộc chiến bảo vệ lợi ích
ông nhấn mạnh: “Hình tượng nghệ thuật của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo
không phải là sự bừng sáng đột xuất của Đảng Cộng sản. Bởi như Nguyễn
trong tâm hồn nhà văn. Nó không nảy Lương Ngọc viết trong Sơ thảo nguyên lí
sinh một cách bất ngờ, chớp nhoáng. Nó văn học [1961] – một giáo trình lí luận sơ
ra đời là do sự nỗ lực hoạt động sáng tạo giản nhưng có tầm ảnh hưởng sâu rộng:
của nhà văn trong quá trình thâm nhập, “Chỉ có đứng trên lập trường, quan điểm
phản ánh nội dung khách quan của cuộc của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chỉ có một
sống và biểu hiện suy nghĩ, tình cảm của thế giới quan và nhân sinh xã hội, mới
mình về cuộc sống đó”. Còn nhà văn, phản ánh được nó bằng hình tượng điển
như cách hiểu của Bùi Ngọc Trác, chỉ là hình và qua đó mới đề ra được nguyên
một người kể chuyện đời sống một cách nhân và phương pháp giải quyết những
thông minh, sinh động, bằng cách sử mâu thuẫn xã hội một cách đúng đắn và
dụng lối nói hình tượng. triệt để, khiến cho tác phẩm văn học trở
Nếu hình tượng là khái niệm chỉ thành một sức mạnh cải tạo xã hội” [7,
đặc trưng tư duy nhận thức và phản ánh tr.246].
của văn học thì điển hình nghệ thuật, Về chân lí nghệ thuật, ở các giáo

63
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 4[69] năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________




trình lí luận của thập niên 60, 70, nội đệm quan trọng để những giáo trình sau
dung này chưa được trình bày cụ thể, bài năm 1986 tiếp tục kế thừa, phát huy.
bản. Đến năm 1980, giáo trình Cơ sở lí 3. Vấn đề bản chất thẩm mĩ của văn
luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc học trong giáo trình lí luận văn học sau
[chủ biên] ra đời thì vấn đề chân lí thẩm 1986
mĩ mới được trình bày cụ thể, là một Từ sau năm 1986 đến nay, tình hình
phần nội dung thẩm mĩ của văn học. Tuy chính trị thay đổi, đời sống xã hội cũng
nhiên, cũng chính ở đây, người đọc nhận có không ít đổi thay. Chúng ta có dịp tiếp
thấy chân lí nghệ thuật bị đánh đồng với xúc rộng rãi với các nền tri thức hiện đại
chân lí đời sống. Trang 354, tác giả của thế giới, có tiếng nói dân chủ nhất
khẳng định: “Chỉ có thể đạt tới chân lí định trong khoa học, cái nhìn về nghệ
nghệ thuật, khi nhà văn mạnh dạn hư cấu, thuật cũng theo đấy mà cởi mở, linh hoạt
sáng tạo trên cơ sở trung thành với chân và sâu sắc hơn.
lí cuộc sống”. Một cách diễn đạt khác, Nhìn lại chặng đường gần 30 năm
ông viết: “Xét trên những nét cơ bản, mà LLVH đã đi qua, người đọc có thể
chân lí nghệ thuật chính là sự thật của nhận ra nhiều nét chuyển biến đáng ghi
bản thân đời sống được biểu hiện bằng nhận xung quanh vấn đề bản chất và đặc
hình tượng nghệ thuật” [8, tr.354]. Vì trưng của văn học. Không phủ nhận vai
vậy, muốn xác định độ tin cậy của lí trò xã hội, nhưng lí luận thời kì này cũng
tưởng thẩm mĩ trong tác phẩm nghệ không còn cách hiểu “ngây thơ” như
thuật, hãy nhìn vào “những sự kiện cuộc trước. Những người nghiên cứu văn học
sống được miêu tả” [8, tr.355]. Đây là đã nhìn ra sự khác biệt giữa chân lí nghệ
điểm chung của những người theo mĩ học thuật và chân lí đời sống – là điểm cơ bản
mác-xít, coi cái đẹp phải là cái thực tồn mấu chốt để văn học xác lập tiếng nói và
và phải gắn liền với cái có ích, cái thiện. diện mạo riêng, tương tác nhưng độc lập
Từ đây, người đọc có thể hiểu nhà văn với các hình thái ý thức khác. Dĩ nhiên,
cùng lắm cũng chỉ là một trong những sự chuyển biến này là một quá trình
người sớm tri nhận được chân lí đời sống chiêm nghiệm lâu dài.
và biết cách mê dụ người khác bằng lối Giáo trình LLVH từ 1986 đến nay
kể chuyện hình tượng mà tuyệt nhiên đã từng bước ghi nhận, tổng kết thành
không sáng tạo cái đẹp nào khác. quả của quá trình vận động đổi mới tư
Dù còn nhiều hạn chế, nhưng ở vào duy văn học ở nước ta. Ở các giáo trình,
thời điểm điều kiện chính trị và đời sống hệ thống vấn đề bản chất thẩm mĩ đã
văn học còn nhiều khó khăn, chưa có bứt được đặt ra, kiến giải căn bản, nhuần nhị.
phá mạnh, thì một số nỗ lực đổi mới quan Ra đời vào giữa những năm 80 của
niệm về bản chất thẩm mĩ như trong giáo thế kỉ XX, thời điểm đất nước và văn học
trình Cơ sở lí luận văn học năm 1980 có nhiều biến đổi, giáo trình Lí luận văn
cũng đáng được ghi nhận. Đây là bước học [1986], do Phương Lựu chủ biên, vẫn

64
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thị Gấm
_____________________________________________________________________________________________________________




kế tục nhiều luận điểm của những giáo trình Văn học, nhà văn, bạn đọc [2002]
trình trước đó. Tuy nhiên, người đọc có khẳng định, phát triển. Nguyễn Nghĩa
thể tìm thấy ở đây những dấu hiệu đổi Trọng, trong phần Nội dung tình cảm xã
mới, về lí tưởng thẩm mĩ của văn học hội thẩm mĩ, cho rằng tự bản chất văn
nghệ thuật chẳng hạn. Ở chương VI: Văn học luôn hướng đến một lí tưởng và ước
nghệ, một hình thái ý thức xã hội đặc thù, mơ cao đẹp, vượt lên trên cái đẹp của
Trần Đình Sử đi vào phân tích các cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, khác
phương diện thẩm mĩ như đối tượng, nội với các hình thái ý thức như chính trị, đạo
dung, hình tượng, điển hình nghệ thuật... đức, triết học…, văn học đi đến lí tưởng
Qua đây, người đọc bắt gặp những quan của mình bằng con đường tình cảm. Lí
điểm mới mẻ. Tựu trung, tác giả nhấn tưởng của văn học là lí tưởng về một xã
mạnh cội nguồn bản chất thẩm mĩ của hội cao thượng, nhân văn, nên tình cảm
văn học nằm ở quan niệm về chân lí đời trong văn học cũng khác tình cảm thông
sống và chân lí về cái đẹp. Trong đó, thường. Nó là tình cảm xã hội thẩm mĩ.
chân lí về cái đẹp luôn được gắn liền với Ông viết: “Nghệ thuật không thoát li
cái tốt, cái thật. Ông viết: “Đặc điểm của nhưng cần làm cho tâm hồn con người
nội dung văn nghệ là khát vọng thiết tha được nâng cao hơn so với tình cảm thực
muốn thể hiện một quan niệm về chân lí tế hàng ngày trong mọi lĩnh vực cuộc
đời sống, một chân lí về cái đẹp, cái tốt, sống” [5, tr.64]. Đối tượng trung tâm
cái thật thể hiện trong các hiện tượng tự phản ánh của văn học dĩ nhiên là cái đẹp,
nhiên và xã hội, trong các quan hệ giữa cái cao cả, nhưng cũng không xa lánh cái
người và người, trong tính cách con thấp hèn. Trái lại, văn học trực diện, đấu
người” [4, tr.128]. Đó là loại chân lí tranh với cái xấu xa thấp hèn trong thế
không phải từ sự áp đặt của hệ ý thức “đối sánh nó theo một lí tưởng và ước mơ
khác, mà chính từ sự thể nghiệm của nhà cao đẹp” [5, tr.64]. Ngay cả ở những tình
văn trong cuộc sống. Và qua tác phẩm huống như vậy cũng là văn học đang
nghệ thuật, nhà văn “muốn nói to lên cho “gián tiếp gắn bó với cái đẹp”. Tác giả
mọi người, muốn thuyết phục họ và chia cũng cho rằng, với tâm điểm là cái đẹp
sẻ với họ” chân lí thẩm mĩ do mình hoàn thiện, lí tưởng thẩm mĩ của văn học
chiêm nghiệm. Cho nên, theo tác giả, nội “tuy không đồng nhất, nhưng là thống
dung của văn học nghệ thuật không phải nhất với chân lí và đạo lí” đời sống [5,
là cuộc sống như nó vốn có, mà là “cuộc tr.64]. Mặt khác, ông cũng thấy rằng, văn
sống được ý thức về mặt tư tưởng và giá học là một dạng ý thức, tình cảm, thông
trị”, được tái hiện “trong tương quan với qua phản ánh hiện tượng cuộc sống bằng
lí tưởng, khát vọng, tình cảm của con hình thức trực quan mà bộc lộ khao khát,
người” [4, tr.128]. Nghĩa là như nó cần mơ ước. Vì vậy, dù hiện tượng văn học
phải có. phản ánh là gì đi nữa thì đấy cũng “chỉ là
Quan điểm này tiếp tục được giáo bóng dáng của cuộc đời, chứ không phải

65
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 4[69] năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________




là bản thân cuộc đời đích thực” [5, tr.62]. cần nên có” [9, tr.89]. Là đại diện cho
Ông cũng cho rằng, văn học cũng như tính tất yếu phổ quát của cái đẹp, lí tưởng
nghệ thuật “không hề bày ra một quyền thẩm mĩ bao hàm trong nó những nội
lợi thiết thực nào cả, cho dù rất tự nhiên dung chủ yếu của lí tưởng xã hội và lí
và chính đáng đi nữa” [5, tr.62]. Như tưởng đạo đức.
vậy, cách lập luận của tác giả cho thấy, Như vậy, bản chất thẩm mĩ đã được
bản chất của văn học là cái đẹp tinh thần. LLVH xác tín trở lại [lần đầu có lẽ vào
Việc văn học phản ánh hiện tượng đời thập niên 30 của thế kỉ trước, đặc biệt
sống xã hội là tất yếu nhưng cũng là dạng trong cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nhân
phản ánh thẩm mĩ và bộc lộ tình cảm sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật]. Giáo
trong chiều kích thẩm mĩ của riêng nó. trình LLVH đã không coi yếu tố thẩm mĩ
Mọi quy chiếu hiện thực từ tác phẩm ra là phương tiện trung chuyển mà là mục
đời sống và ngược lại đều bóp chết giá trị đích tự thân của nghệ thuật. Bằng cách
nghệ thuật của tác phẩm. thông qua phản ánh hiện thực, nó tạo ra
Trong các giáo trình LLVH thời đổi hình ảnh cụ thể cảm tính về cái đẹp cần
mới, có lẽ Lí luận văn học nhập môn phải có, cái đẹp trong ước mơ để mọi
[2010] của Huỳnh Như Phương là trình người có thể cảm nhận được. Điều này
bày được nhiều điểm mới mẻ hơn, đồng không có nghĩa tác phẩm văn học chỉ
thời giải quyết vấn đề nhuần nhị hơn cả. miêu tả cái đẹp, xa lánh cái xấu xa thấp
Công trình là kết quả của một quá trình hèn. Một thời gian dài trong lịch sử văn
nhiều năm tiếp nhận, chọn lọc, tổng hợp học nước ta, nhất là những năm đất nước
lí thuyết mĩ học, văn học hiện đại thế chịu bom đạn tàn phá, lí luận, phê bình
giới, cùng những suy ngẫm khoa học và thiên về cái cao cả, mà quên rằng cái bi,
kinh nghiệm giảng dạy của ông. cái hài, cái tầm thường cũng là đối tượng
Để làm sáng tỏ vấn đề bản chất phản ánh của văn học nghệ thuật. Dù quả
thẩm mĩ của văn học và để xác lập vị thể thực, khi tinh thần dân tộc trỗi dậy, thì
của hình thái ý thức này trong tồn tại xã không chỉ người làm lí luận mà chính
hội, ông phân biệt lí tưởng xã hội, lí những nhà văn cũng dễ rung động bởi cái
tưởng đạo đức và lí tưởng thẩm mĩ. cao cả. Nhưng khi sự chú ý đó đi quá
Trong đó, mục tiêu cơ bản của vận động ngưỡng, “con tàu” lí luận đã bị lệch khỏi
xã hội là lí tưởng xã hội; mục tiêu cơ bản “đường ray” cần chạy, và phê bình đã để
của chuẩn mực đạo lí là lí tưởng đạo đức; “lạc” những “hành khách” nó cần đón.
mục tiêu cơ bản của nghệ thuật là lí Người nghiên cứu và công chúng yêu văn
tưởng thẩm mĩ. Lí tưởng thẩm mĩ “hướng học vẫn còn nhớ biết bao câu chuyện
tới cái đẹp trong ước mơ và khát vọng buồn của làng văn Việt Nam về những
của con người, nó nêu bật hình ảnh về tác giả, tác phẩm văn học ra đời giữa thời
những giá trị và quan hệ thẩm mĩ hoàn chiến. Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán,
chỉnh mà con người cho rằng cần phải có, Lê Đạt… là những trường hợp như thế.

66
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thị Gấm
_____________________________________________________________________________________________________________




Cùng với việc thay đổi quan niệm chứ không thuần túy là miêu tả cái đẹp
về bản chất thẩm mĩ, quan niệm về vai hiện tồn theo tính tất yếu lịch sử như
trò của nhà văn trong hoạt động sáng tạo quan niệm của giáo trình lí luận trước
cũng được giáo trình LLVH thời đổi mới năm 1986. Bản chất của quá trình viết ấy
nhìn nhận lại. Nhà văn, theo quan niệm là sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, mà
của giáo trình LLVH từ năm 1986 đến thông qua đấy, nhà văn với vai trò chủ
nay, là người gìn giữ và sáng tạo cái đẹp thể, là người đi trước trong kinh nghiệm
tinh thần lí tưởng, là người đưa lí tưởng khám phá thẩm mĩ, “truyền bản chất của
thẩm mĩ đến với đời sống nhân loại và mình cho các đối tượng” khách quan.
khơi gợi ở nhân loại lòng khao khát cái Đến lượt mình, “những đối tượng ấy lại
đẹp hoàn thiện, bằng cách xây dựng hình truyền cái bản chất người [tác giả nhấn
tượng cụ thể cảm tính về nó. Anh ta xây mạnh] cho công chúng quan tâm thưởng
dựng hình tượng không phải chỉ để phản ngoạn” [9, tr.71]. Bằng cách ấy, nhà văn
ánh hiện thực như nó vốn có, đang có mà “gợi lên trong người đọc sự đồng cảm với
như là nó cần phải có, theo thẩm mĩ của lí tưởng thẩm mĩ của mình, kêu gọi công
mình. Huỳnh Như Phương viết trong Lí chúng trở thành người đồng hành và
luận văn học nhập môn [2010]: “Nhà văn người kế tục lí tưởng mà mình đề cao”
là người thay mặt cho xã hội nói lên [9, tr.91]. Nói văn học có chức năng giáo
những điều không bằng lòng, những mối dục tức là giáo dục thẩm mĩ như thế.
bất hòa với thực tại, đồng thời diễn đạt Xuất phát từ quan niệm mục đích
những ước mơ, khát vọng của con người của văn học là biểu hiện lí tưởng thẩm
bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Khi ước mơ mĩ, giáo trình LLVH từ 1986 đến nay
và khát vọng đó không thực hiện được, nhìn nhận hình tượng nghệ thuật như là
trở nên xa vời, tác phẩm sẽ thấm đậm hình thức cụ thể hóa lí tưởng thẩm mĩ.
một nỗi buồn về lí tưởng” [9, tr.90]. Lúc Bởi vì, “lí tưởng – đó là ý niệm về sự
này, nhà văn giải quyết mâu thuẫn giữa hoàn thiện, là ước mơ về tương lai” [9,
hiện thực và lí tưởng “không phải bằng tr.88]. Nó cần được biểu hiện bằng hình
cách biến lí tưởng phải phục tùng hiện thức cụ thể cảm tính là hình tượng. Bởi
thực mà bằng cách miêu tả hiện thực với hình tượng là một trong những “con
tinh thần phê phán” [9, tr.90]. Do đó, có đường tuyệt diệu nhất để diễn đạt lí
thể nói, qua tác phẩm văn học, nhà văn tưởng thẩm mĩ và làm cho mọi người có
vừa khám phá cái đẹp thực tại, vừa sáng thể cảm nhận được”, và nếu không có
tạo cái đẹp mới và “chiêm nghiệm mình hình tượng, văn học nói riêng, nghệ thuật
trong một thế giới do mình sáng tạo nên” nói chung “sẽ không thể tạo ra ấn tượng
[9, tr.71], dưới dạng hình tượng cụ thể về hình ảnh cái đẹp cần phải có, cái đẹp
cảm tính. Và như vậy, viết là một quá trong ước mơ” [9, tr.89]. Hình tượng có
trình, nói như Huỳnh Như Phương là “tái thể là cái thực trong đời sống, cũng có
tạo và sáng tạo thế giới các đối tượng”, thể chỉ là cái có trong tâm tưởng nhà văn,

67
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 4[69] năm 2015
_____________________________________________________________________________________________________________




miễn là nó tìm được sự tương đồng với quan trọng tác động trực tiếp đến sự hình
hình thức tồn tại của đời sống. Giáo trình thành, đổi mới tư duy của giáo trình lí
Văn học, nhà văn, bạn đọc [2002] có luận về vấn đề bản chất và chức năng của
đoạn viết: Hình tượng nghệ thuật, “đó là văn học.
một thể thống nhất sinh động giữa thực Nghiên cứu giáo trình LLVH bậc
và hư, trực tiếp và gián tiếp, ổn định và đại học ở Việt Nam hơn 50 năm qua,
biến hóa, thống nhất và đa dạng, mang chúng tôi cho rằng các giáo trình phần
đầy nội dung cuộc sống, tư tưởng và cảm nào đã làm được nhiệm vụ của nó: chọn
xúc” [5, tr.71]. lọc, tinh luyện, xây dựng nền kiến thức
4. Kết luận cơ bản vững chắc cho người học trẻ. Cố
Phổ biến tri thức, tư tưởng, thái độ nhiên, ở các giáo trình hiện nay, những
khoa học cho người học là mục tiêu trọng vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học,
tâm của giáo trình lí luận bậc đại học. trong đó có vấn đề bản chất thẩm mĩ
Cũng như các ngành khoa học khác, hàm không phải đều đã được giải quyết thấu
lượng tri thức trong giáo trình lí luận đòi đáo. Tuy vậy, từ những nghiên cứu thu
hỏi tính khái quát, tính xác thực cao. Tuy được, chúng tôi cho rằng giáo trình
nhiên, đời sống văn học luôn vận động LLVH hơn 50 năm qua đã có những
biến đổi. Quan niệm của lí luận về văn bước đi dài, ngày càng tiến bộ và chuyên
học, dẫu có khi nhanh khi chậm, cũng nghiệp hơn. Dẫu có những quan điểm là
biến đổi không ngừng. Tri thức trong “cũ người mới ta”, nhưng đấy vẫn là
giáo trình LLVH, vì vậy, chỉ mang tính những nỗ lực đáng ghi nhận trong quá
ổn định tạm thời. Nghĩa là nó chấp nhận trình hiện đại hóa nền LLVH nước nhà.
sự biến đổi, vượt qua. Mặt khác, cũng bởi Hơn nữa, ngay cả khi giáo trình chỉ đổi
là khoa học về nghệ thuật ngôn từ, nên mới so với chính nó [như là quá trình nỗ
nội dung giáo trình LLVH không tránh lực khắc phục và vượt khỏi khung mĩ học
khỏi yếu tố chủ quan của người biên phản ánh luận Mac-xit thời Xô-viết cũ,
soạn. Bên cạnh đó, loại giáo trình này vốn ăn sâu bám rễ vào tư tưởng lí luận
chịu sự chi phối lớn từ điều kiện lịch sử Việt Nam nói chung], thiết nghĩ, đã là
xã hội, đặc biệt là ở những nơi, những điều đáng để chúng ta trân trọng.
thời kì mà tinh thần độc lập và dân chủ Xã hội ngày càng phát triển, tư duy
khoa học chưa cao. Những năm đất nước đời thường và tư duy học thuật cũng
có chiến tranh, giáo trình lí luận là một không ngừng tiến bộ. Những vấn đề
trong những kênh “tuyên truyền” quan thuộc bản chất và đặc trưng của văn học
trọng, hiệu quả cho đường lối văn hóa sẽ vẫn tiếp tục được đặt ra, đòi hỏi người
văn nghệ của Đảng, vì sự nghiệp cách nghiên cứu phải liên tục vận động tư duy,
mạng chung của dân tộc. Ngoài ra, sự thay đổi điểm nhìn để tiếp cận và giải
phát triển của hoạt động sáng tác và trình quyết đối tượng sâu suốt hơn.
độ lí luận nói chung cũng là những yếu tố

68
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Thị Gấm
_____________________________________________________________________________________________________________




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bakhtin. M [2007], “Nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo ngôn từ”, Lí
luận – phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Hà Minh Đức [chủ biên] [1992], Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Hà [2006], “Sự vận động của lí luận văn học mác xít ở Việt Nam từ sau
1954 qua hệ thống giáo trình lí luận văn học”, Tạp san Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Trường Đại học KHXH & NV TP Hồ Chí Minh, [3], tr.12-18.
4. Phương Lựu [chủ biên] [1997], Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Phương Lựu [chủ biên] [2002], Lí luận văn học, tập 1: Văn học, nhà văn, bạn đọc,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
6. Nhiều tác giả [các trường đại học sư phạm] [1976], Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
7. Nguyễn Lương Ngọc [1961], Sơ thảo nguyên lí văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Lương Ngọc [chủ biên] [1980], Cơ sở lí luận văn học, tập 1, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
9. Huỳnh Như Phương [2010], Lí luận văn học [nhập môn], Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM.
10. Huỳnh Như Phương [2010], “Môn lí luận văn học trong nhà trường đại học”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, [4], tr.42-51.
11. Trần Đình Sử [chủ biên] [2007], Giáo trình Lí luận văn học, tập 1: Bản chất và đặc
trưng văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Thiện [2006], “Về việc biên soạn giáo trình lí luận văn học bậc đại học
ở ta 50 năm qua”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, [5], tr.12-20.

[Ngày Tòa soạn nhận được bài: 19-6-2014; ngày phản biện đánh giá: 21-7-2014;
ngày chấp nhận đăng: 07-4-2015]




69

Page 2

YOMEDIA

Từ năm 1960 đến nay, lịch sử biên soạn giáo trình lí luận văn học [LLVH] [bậc đại học] đã trải qua hơn 50 năm. Đấy cũng là chặng đường hình thành và phát triển của LLVH Việt Nam với tư cách là một ngành khoa học. Nghiên cứu giáo trình LLVH bậc đại học, tác giả nhận thấy những chuyển biến đáng ghi nhận trong quan niệm về bản chất và đặc trưng của văn học, đặc biệt là bản chất thẩm mĩ. Thành tựu này đã góp phần vào sự phát triển của nền LLVH Việt Nam hiện đại.

09-09-2015 402 21

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề