Hướng dẫn đo đếm điều tra trữ lượng rừng trồng năm 2024

Theo tôi biết nhà nước có nhiều chính sách đối với bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng. Vừa qua Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành văn bản về điều tra theo dõi diễn biến rừng. Anh chị cho tôi hỏi Phương pháp điều tra chất lượng rừng theo hệ thống chùm ô được quy định như thế nào?

  • [ảnh minh họa]

Tại Điều 11 Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT về điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến rừng, có hiệu lực ngày 01/01/2019, quy định phương pháp điều tra chất lượng rừng theo hệ thống chùm ô như sau:

- Trên toàn bộ diện tích rừng và diện tích chưa có rừng thiết lập hệ thống lưới ô vuông 8 km x 8 km, trên mỗi mắt lưới bố trí một chùm ô;

- Trong mỗi chùm ô thiết lập 5 ô đo đếm theo dạng hình chữ L; khoảng cách giữa các ô đo đếm là 150 m; mỗi ô đo đếm có diện tích 1000 m2;

- Định kỳ 5 năm điều tra, thu thập số liệu từ các chùm ô, bao gồm: các chỉ tiêu về trữ lượng rừng theo phương pháp quy định tại điểm d và điểm g khoản 2 Điều 11 của Thông tư này; các chỉ tiêu tái sinh rừng theo phương pháp quy định tại khoản 2 Điều 14 của Thông tư này; xác định thành phần loài lâm sản ngoài gỗ và trữ lượng lâm sản ngoài gỗ theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 15 của Thông tư này; xác định thành phần loài, đo đếm chiều cao và độ che phủ của cây bụi, thảm tươi; điều tra trữ lượng các-bon rừng theo phương pháp quy định tại các điểm b, c và điểm d khoản 2 Điều 22 của Thông tư này.

Tại khoản 1 Điều 11 Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT có quy định về nội dung của việc điều tra trữ lượng rừng gồm có:

- Điều tra trữ lượng gỗ của rừng tự nhiên và rừng trồng;

- Điều tra trữ lượng tre nứa của rừng tự nhiên và rừng trồng;

- Điều tra trữ lượng gỗ và trữ lượng tre nứa của rừng hỗn giao gỗ - tre nứa và rừng hỗn giao tre nứa - gỗ.

Điều tra trữ lượng rừng [Hình từ Internet]

Việc điều tra trữ lượng rừng được thực hiện theo các phương pháp gì?

Căn cứ theo khoản 2 Điều 11 Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT thì việc điều tra trữ lượng rừng được thực hiện theo các phương pháp sau:

[1] Sử dụng ô tiêu chuẩn bố trí ngẫu nhiên hoặc hệ thống, diện tích 1.000 m2, đối với những trạng thái rừng tự nhiên có diện tích lớn hơn 2.000 ha;

[2] Sử dụng ô tiêu chuẩn bố trí điển hình, diện tích từ 500 m2 đến 1.000 m2, đối với những trạng thái rừng tự nhiên có diện tích nhỏ hơn 2.000 ha; tỷ lệ diện tích rút mẫu điều tra từ 0,01% đến 0,1%;

[3] Sử dụng ô tiêu chuẩn bố trí điển hình theo từng trạng thái rừng [loài cây, cấp tuổi], diện tích từ 100 m2 đến 500 m2 đối với rừng trồng; tỷ lệ diện tích rút mẫu điều tra từ 0,01% đến 0,05%;

[4] Điều tra cây gỗ và cây tre nứa bao gồm: xác định tên loài cây, phẩm chất cây, đo chiều cao vút ngọn, đường kính thân tại vị trí 1,3 m; trường hợp cần tính toán trữ lượng rừng bị mất thì đo đường kính tại vị trí 1,3 m đối với cây đã bị chặt hạ vẫn còn trên hiện trường, đo đường kính gốc chặt đối với cây bị chặt chỉ còn gốc;

[5] Sử dụng các thiết bị điều tra nhanh trữ lượng rừng;

[6] Sử dụng biểu trữ lượng, sản lượng lập sẵn để tra cứu;

[7] Sử dụng các phần mềm chuyên dụng để xử lý, phương pháp thống kê toán học tính toán trữ lượng rừng.

Việc điều tra trữ lượng rừng có nằm trong nhiệm vụ điều tra, đánh giá rừng theo chu kỳ hay không?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT có nêu như sau:

Nhiệm vụ, quy trình và tổ chức điều tra, đánh giá rừng theo chu kỳ
1. Nhiệm vụ điều tra, đánh giá rừng theo chu kỳ
Theo mục tiêu và yêu cầu quản lý, các nhiệm vụ điều tra rừng theo chu kỳ được xác định cụ thể như sau:
a] Điều tra diện tích rừng theo quy định tại khoản 1 Điều 10 của Thông tư này;
b] Điều tra trữ lượng rừng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Thông tư này; điều tra trữ lượng lâm sản ngoài gỗ theo quy định tại các khoản 1 Điều 15 của Thông tư này; điều tra trữ lượng các-bon theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 22 Thông tư này;
c] Điều tra cấu trúc rừng theo quy định tại khoản 1 Điều 12 của Thông tư này;
d] Điều tra tăng trưởng rừng theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Thông tư này;
đ] Điều tra tái sinh rừng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Thông tư này;
e] Điều tra cấu trúc cây bụi, thảm tươi;
g] Điều tra lập địa theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 16 Thông tư này;
h] Điều tra đang dạng hệ sinh thái theo quy định tại khoản 1 Điều 18 của Thông tư này;
i] Điều tra đa dạng thực vật rừng theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Thông tư này;
k] Điều tra đa dạng động vật rừng có xương sống theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Thông tư này;
l] Điều tra côn trùng rừng và sâu bệnh hại rừng theo quy định tại khoản khoản 1 Điều 21 của Thông tư này.

Theo quy định trên thì việc điều tra trữ lượng rừng thuộc một trong những nhiệm vụ điều tra, đánh giá rừng theo chu kỳ.

Dựa vào trữ lượng rừng thì có thể phân chia rừng thành các loại gì?

Căn cứ theo Điều 7 Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT có quy định như sau:

Phân chia rừng tự nhiên theo trữ lượng
1. Đối với rừng gỗ, bao gồm:
a] Rừng giàu: trữ lượng cây đứng lớn hơn 200 m3/ha;
b] Rừng trung bình: trữ lượng cây đứng từ lớn hơn 100 đến 200 m3/ha;
c] Rừng nghèo: trữ lượng cây đứng từ lớn hơn 50 đến 100 m3/ha;
d] Rừng nghèo kiệt: trữ lượng cây đứng từ 10 đến 50 m3/ha;
đ] Rừng chưa có trữ lượng: trữ lượng cây đứng dưới 10 m3/ha.
2. Đối với rừng tre nứa: rừng được phân theo loài cây, cấp đường kính và cấp mật độ; phân chia chi tiết theo quy định tại Phụ lục I kèm theo Thông tư này.

Theo đó dựa theo trữ lượng rừng thì có thể phân chia rừng tự nhiên thành các loại từng sau:

- Rừng giàu: trữ lượng cây đứng lớn hơn 200 m3/ha;

- Rừng trung bình: trữ lượng cây đứng từ lớn hơn 100 đến 200 m3/ha;

- Rừng nghèo: trữ lượng cây đứng từ lớn hơn 50 đến 100 m3/ha;

- Rừng nghèo kiệt: trữ lượng cây đứng từ 10 đến 50 m3/ha;

- Rừng chưa có trữ lượng: trữ lượng cây đứng dưới 10 m3/ha.

Lưu ý: Đối với rừng tre nứa: rừng được phân theo loài cây, cấp đường kính và cấp mật độ; phân chia chi tiết theo quy định tại Phụ lục I kèm theo Thông tư 33/2018/TT-BNNPTNT.

Chủ Đề