Nhớ lại thuở ông Dương Đình Nghệ
Đánh đuổi quân đô hộ hung tàn1 [931]
Làm nên thắng lợi vẻ vang
Muôn dân thoát ách ngoại bang bạo cuồng
Mới giành lại được quyền tự chủ
Nơi triều trung lại nổi can qua
Tên Kiều Công Tiễn gian tà2
Manh tâm cõng rắn cắn gà nhiễu nhương
Quân Nam Hán hung hăng tàn ngược
Lại động binh xâm lược nước Nam
Giở bài lừa bịp thế gian
Giả danh cứu viện, mưu toan đoạ đày
Chúng hí hửng rằng đây cơ hội
Cho ý đồ chiếm lại nước ta
Lăm lăm quân tướng tràn qua
Dã tâm giày xéo sơn hà Rồng Tiên.
Từ Châu Ái, Ngô Quyền cấp tốc3
Đem đại binh ra Bắc vây thành [938]
Khẩn trương làm chủ Tống Bình
Giết Kiều Công Tiễn, nội tình trấn an
Trước nhanh chóng đánh tan nội ứng4
Sau tập trung sức chống ngoại xâm
Binh cơ kế sách tuyệt trần
Không lâm vào thế thù trong giặc ngoài
Nhận định địch mạnh về thuỷ chiến
Ắt sẽ theo đường biển tiến sang
Ba quân thế trận sẵn sàng
Nhất tâm chọn cửa Bạch Đằng phục binh
Trên dưới một niềm tin tất thắng
Cọc gỗ mau cắm xuống lòng sông
Vạt đầu bịt sắt phía trên5
Triều cường mặt nước phủ lên cọc ngầm
Thuỷ triều xuống, nước sông rút cạn
Cọc nhô lên cả đoạn sông dài
Ba ngàn cọc nhọn nơi đây
Sẽ thành đại huyệt vùi thây quân thù!
Nguyễn Tất Tố liệu trù khiêu chiến6
Rất tỏ thông sông biển vùng này
Toán quân nhỏ, đánh nhử hay
Canh giờ dụ địch, phô tài giả thua…
Lưu Hoằng Tháo – con vua Nam Hán
Dẫn binh thuyền hãnh tiến tràn sang [cuối 938]
Quân đông tàu lớn nghênh ngang
Tưởng đâu thôn tính nước Nam dễ dàng
Nguyễn Tất Tố hiên ngang nghênh chiến
Dùng thuyền con chặn đánh giữa dòng
Triều cường sông nước mênh mông
Phẩy tay, Hoằng Tháo thúc quân xông vào
Thuyền chiến địch ào ào tràn đến
Toán quân ta nhanh nhẹn lui binh
Giặc càng đắc thắng tiến nhanh
Vượt qua bãi cọc băng lên rần rần.
Thuỷ triều xuống, cọc ngầm xuất lộ
Toán quân ta quay lại tấn công
Đồng thời khắp các bờ sông
Phục binh cùng lúc tấn công quân thù
Khắp tứ phía mịt mù tên đạn
Bọn ngoại xâm tán loạn, kinh hoàng!
Cọc đâm, tàu thủng, nước tràn
Thuyền chìm, quân chết, tan hoang đội hình
Hoằng Tháo cũng bỏ mình tại chỗ
Máu quân thù nhuộm đỏ nước sông
Những tên sống sót thất thần
Cuống cuồng tháo chạy thoát thân về Tàu
Vua Nam Hán khóc gào thất vọng
Vỡ tan tành ảo mộng xâm lăng!
Lưu Cung vội vã rút quân7
Dám đâu tiếp ứng như từng huênh hoang!
Từ chiến thắng huy hoàng năm ấy
Bốn ba năm sau lại diễn ra
Quân xâm lược Tống tràn qua [981]
Mưu đồ chiếm đóng nước ta lâu dài
Bạch Đằng lần thứ hai vang dội
Ghi chiến công chói lọi lẫy lừng
Đại Hành hoàng đế anh hùng8
Cũng bày trận địa tại sông Bạch Đằng
Đã mai phục đánh tan giặc Tống
Đã chôn vùi cuồng vọng ngoại bang
Tên Hầu Nhân Bảo kinh hoàng
Vùi thây giữa lớp sóng tràn triều dâng.
Và nối tiếp chiến công hiển hách
Lần thứ ba sông nước Bạch Đằng
Vững vàng thế trận bủa giăng
Đánh tan bọn giặc Nguyên Mông hung tàn [1288]
Trần Hưng Đạo giỏi giang, tài trí
Cắm cọc ngầm, bố trí phục binh
Dựa vào triều xuống, triều lên
Dụng binh tương tự Ngô Quyền năm xưa
Tướng giặc Ô Mã Nhi bị bắt9
Quân ngoại xâm tan tác khắp nơi
Lửa hờn ngút cả đất trời
Bạch Đằng cuộn sóng chôn vùi quân Nguyên10.
Ôi, rạng rỡ tổ tiên nước Việt
“Đằng giang tự cổ huyết do hồng”11
Máu thù loang đỏ nước sông
Ba lần lừng lẫy chiến công Bạch Đằng12
Trang sử chống xâm lăng chói lọi
Bạch Đằng giang vang dội nghìn thu
Nước sông vùi mộng quân thù
Nước sông bừng sáng cõi bờ Rồng Tiên
Cả thế giới lưu truyền danh tiếng
Rạng năm châu chiến thắng vang lừng
Đời đời tạc dạ ghi lòng
Ba lần đại thắng trên sông Bạch Đằng.
Nhà báo LÊ VĂN THƠM
*Chú thích:
1/ Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại quyền tự chủ cho người Việt, tự xưng là Tiết độ sứ.
2/ Năm 937, nha tướng Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ, cướp ngôi Tiết độ sứ. Ngô Quyền [con rễ của Dương Đình Nghệ] đang trấn thủ tại Ái Châu, liền tập hợp lực lượng để ra trị tội Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội cho người sang cầu cứu quân Nam Hán.
3/ Châu Ái nay thuộc tỉnh Thanh Hoá.
4/ Chủ trương của Ngô Quyền là trước phải tiêu diệt bọn Kiều Công Tiễn, sau tập trung lực lượng đánh quân Nam Hán, không để giặc bên ngoài cấu kết với bọn nội ứng bên trong.
5/ Đầu trên cọc gỗ được vát nhọn và bịt sắt.
6/ Tướng Nguyễn Tất Tố được giao chỉ huy một toán quân nhỏ với các thuyền nhẹ, chọn thời điểm khiêu chiến và giả thua chạy, nhử địch đuổi theo vượt qua bãi cọc ngầm lúc thuỷ triều lên, lọt vào trận địa mai phục của ta. Quân ta đánh mạnh, binh thuyền địch chạy trở ra thì đúng trong thời gian thuỷ triều xuống.
7/ Lưu Cung là vua Nam Hán, cha của Lưu Hoằng Tháo. Khi Hoằng Tháo xuất quân sang xâm lược nước ta, Lưu Cung trực tiếp chỉ huy một đội quân đóng tại Hải Môn [khu vực biên giới] nói là để làm thanh viện, sẵn sàng tiếp ứng cho con trai.
8/ Vua Lê Đại Hành – người lập ra Nhà Tiền Lê, trước khi lên ngôi tên là Lê Hoàn, thường gọi THẬP ĐẠO TƯỚNG QUÂN LÊ HOÀN [chỉ huy 10 đạo quân].
9/ Ô Mã Nhi bị bắt trong trận Bạch Đằng lần thứ ba năm 1288, sau bị giết vì đã tàn phá lăng miếu Nhà Trần và gây nhiều tội ác với nhân dân ta.
10/ Trận Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 đánh quân Nam Hán xâm lược khi chúng tiến vào nước ta. Trận Bạch Đằng lần thứ hai năm 981 đánh quân Tống xâm lược khi chúng tiến vào nước ta. Trận Bạch Đằng lần thứ ba năm 1288 đánh quân Nguyên Mông xâm lược khi chúng rút chạy về Tàu.
11/Năm 1637, Giang Văn Minh dẫn đầu đoàn sứ bộ nước ta đi sứ sang Trung Quốc. Vua Minh trịch thượng ra vế đối“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”, nghĩa là CỘT ĐỒNG ĐẾN NAY RÊU ĐÃ XANH, ngụ ý nhắc việc Mã Viện đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" – Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong. Giang Văn Minh hiên ngang đối lại: "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng", nghĩa là SÔNG ĐẰNG TỪ XƯA MÁU CÒN ĐỎ. Vế đối vừa chỉnh, vừa thể hiện nước Việt anh hùng đã ba lần đánh thắng quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng. Vua Minh cay cú, bất chấp luật lệ bang giao, trả thù hèn hạ bằng cách giết hại Giang Văn Minh.
Khi đưa linh cữu Giang Văn Minh về nước, Vua Lê Thần Tông đã đến viếng và ban tặng câu: "Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng", nghĩa là: Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng danh anh hùng thiên cổ.
12/ Ba lần chiến thắngBạch Đằng đều là 3 trận thủy chiến đặc biệt mưu trí, sáng tạo của thủy quân Việt Nam. Trận Bạch Đằng lần thứ nhất ngày 31/12/938 [thời kỳ Ngô Quyền chống quân Nam Hán], trận Bạch Đằng lần thứ hai ngày 28/4/981 [thời kỳ Lê Hoàn đánh quân Tống] và trận Bạch Đằng lần thứ ba ngày 9/4/1288 [thời kỳ Nhà Trần chống quân Nguyên Mông].