Cáo tật thị chúng nghĩa là gì

4.  Trong  quan niệm của người xưa, hoa mai là loài hoa chịu được cái giá rét của mùa đông. Trong sương tuyết lạnh, mai vẫn nở hoa, báo hiệu cho mùa xuân đến. Hoa mai tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, thử thách, gian nan. Hình tượng hoa mai vì thế tượng trưng cho sức sống bất diệt của con người.

Trường Đại Học An Giang
Khoa sư phạm

So sánh bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác
Thiền Sư (căn cứ vào nguyên tác chữ Hán) với bản
dịch của Ngô Tất Tố, đưa ra những kiến giải hợp lý
cho thấy bản dịch của Ngô Tất Tố chưa chuẩn xác.

Long Xuyên 29 tháng 10 năm 2015

I.

MỞ ĐẦU

Mãn Giác thiền sư tên thật là Lí Trường, sinh năm 1052, mất năm
1096. Nổi tiếng học rộng biết nhiều, tinh thông Nho, Phật đạo. Nhà sư
vừa hâm mộ Phật giáo, nổi tiếng về Thiền học, có xu hướng xuất thế,
lại vừa tích cực nhập thế, giúp nhà vua trong việc triều chính. Rất
được triều đình của vua Lí Nhân Tông coi trọng. Nhà sư đã để lại bài
thơ Cáo tật thị chúng rất nổi tiếng. Trong quyển Thiền uyển tập
anh còn ghi lại về cuộc đời của Mãn Giác thiền sư cùng với tài năng,
đức độ của ông như sau:
“Sư có tiếng là người học rộng nhớ nhiều, thông cả Nho học và
Phật học, được tiếng tuyển vào cung. Mỗi khi làm việc công xong về
nhà, sư chỉ nghĩ đến học phép thiền định. (...) Sau khi đã được tâm ấn
của thiền sư Quảng Trí, sư bèn đeo bầu chống gậy đi vân du mọi nơi
để tìm bạn đạo. Sư đến đâu cũng có rất nhiều người theo học. Sư
nghiên cứu kinh Tam tạng được cái trí tuệ vô thượng và trở nên một
vị lãnh tụ của pháp môn đời bấy giờ. Khi ấy vua và Cảm Linh Nhân
hoàng hậu đang lưu tâm về thiền học, bèn sai làm một ngôi chùa ở


bên cạnh cung Cảnh Hưng mời sư đến để tiện hỏi han về đạo.”
Bài thơ “Cáo tật thị chúng” của ông có giá trị văn chương rất sâu sắc.
Và cũng đã có rất nhiều dịch giả dịch lại bài thơ của ông, ta có thể kể
đến bản dịch thơ của Thượng Quãng Độ, Nguyễn Tấn Hưng hay Túc
Mỡ nhưng suy cho cùng thì bản dịch thơ của Ngô Tất Tố là đặc sắc và
mang ý nghĩa văn chương hơn cả. Ngoài viết văn và làm báo ông còn
là một trong những dịch giả nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ông đã
dịch khá nhiều tác phẩm chữ Hán và được nhiều người biết đến. Các
bản dịch thơ của ông đa phần dễ nhớ, dễ thuộc khiến người đọc khi
đọc vào rất thích thú và đôi khi ông có những sáng tạo về mặt ngôn từ
góp phần làm sáng thêm nguyên tác và nâng cao giá trị tác phẩm hơn
nữa.

Việc dạy học các tác phẩm văn chương nguyên tác chữ Hán có phiên
âm, dịch nghĩa ở trường phổ thông là một điều hết sức cần thiết. Điều
đó góp phần nâng cao sự hiểu biết về nghĩa của từ của học sinh, tập
cho học sinh cách dịch một tác phẩm văn chữ Hán. Tuy nhiên để hiểu
rõ hơn ý nghĩa của tác phẩm thì học sinh cần phải dựa vào nguyên tác,
phiên âm và biết được bản dịch thơ khác gì so với nguyên tác thì học
sinh mới khắc ghi được bài học và nâng cao hơn hiểu biết của học
sinh. Đó là lý do quan trọng nhất để ta tiến hành so sánh nguyên tác
và bản dịch thơ của dịch giả trước khi đưa vào phân tích cho học sinh.
Có một số ý kiến cho rằng bản dịch thơ của Ngô Tất Tố với bài “Cáo
tật thị chúng” tuy có nét độc đáo về ngôn từ nhưng vẫn còn chưa
chuẩn xác với nguyên tác của Mãn Giác Thiền Sư. Với sự tìm tòi và
nghiên cứu các tài liệu cũng như kiến thức cá nhân, nhóm 1 xin đưa ra
những kiến giải về sự chưa chuẩn xác trong bản dịch thơ của Ngô Tất
Tố so với nguyên tác bài thơ.

II.

SO SÁNH:

1. Về hình thức:
Cả nguyên tác và bản dịch thơ đều giống nhau về hình thức (số câu,
số chữ), cụ thể như sau:
 Nguyên tác: (6 câu)
Câu 1: 春去百花落
Xuân khứ bách hoa lạc (5 chữ).
Câu 2: 春到百花開
Xuân đáo bách hoa khai (5 chữ).
Câu 3: 事逐眼前過

Sự trục nhãn tiền quá (5 chữ).
Câu 4: 老從頭上來
Lão tòng đầu thượng lai (5 chữ).
Câu 5: 莫謂春殘花落盡
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận (7 chữ).
Câu 6: 庭前昨夜一枝梅
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (7 chữ).
 Dịch thơ: (6 câu)
Câu 1: Xuân ruổi trăm hoa rụng (5 chữ).
Câu 2: Xuân tới trăm hoa cười (5 chữ).
Câu 3: Trước mắt việc đi mãi (5 chữ).
Câu 4: Trên đầu già đến rồi (5 chữ).
Câu 5: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết (7 chữ).
Câu 6: Đêm qua, sân trước một nhành mai (7 chữ).

2. Về nội dung:
2.1. Nhan đề:
Như chúng ta đã biết, bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác
Thiền Sư vốn không có nhan đề và nhan đề này là do người đời sau
đặt. “Cáo tật thị chúng” theo ý đồ của thiền sư có nghĩa là Nói rõ
bệnh tật để khuyên nhủ đệ tử. Nhưng Ngô Tất Tố dịch thành Cáo
bệnh bảo mọi người. Điều đó là hoàn toàn chưa chuẩn xác và chưa
đúng với ý niệm, mục đích của bài thơ mà Thiền sư đã viết khi lâm

bệnh. Ông viết ra bài thơ nói về bệnh tật của mình để khuyên nhủ đệ
tử về triết lý trong đời, về bài học nhân sinh và niềm tin niềm lạc quan
trong cuộc sống.
告:Cáo nghĩa là nói.
疾:Tật là bệnh, ốm.
示: Thị là mách bảo.
眾: Chúng nghĩa là mọi người nhưng ở đây có nghĩa là đệ tử (người
tu học Phật pháp) chứ không phải mọi người vì Mãn Giác là một thiền
sư ông viết ra những điều này là để khuyên nhủ, giáo huấn trước tiên
là đệ tử của mình để đệ tử của mình giác ngộ được những triết lý ấy.
2.2. Câu thứ nhất:
Câu 1-2:
.
春去百花落
春到百花開
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.)
Khi xem xét bản dịch thơ của tác giả Ngô Tất Tố so với nguyên tác

chữ Hán ta nhận thấy 春 (Xuân): nghĩa là mùa xuân, Ngô Tất Tố đã
giữ nguyên nghĩa gốc của nguyên tác, điều này không có gì để bàn
cải. Đến từ 去 (Khứ) theo nguyên tác: nghĩa là đi, đã qua. Nhưng
trong bản dịch thơ tác giả lại dịch là “ruổi”: “Xuân ruổi trăm hoa

rụng”. Từ “ruổi” cũng có nghĩa là đi nhưng nó thường xuất hiện
trong từ ghép, điển hình như “rong ruổi”, còn khi đứng một mình thì
ý nghĩa mơ hồ, chưa rõ ràng. Vì thế bản dịch thơ dùng từ “ruổi” vẫn
chưa xác với nguyên tác. Điều đó làm cho đọc giả khi đọc sẽ mất đi
vần điệu, không đúng với ý đồ của tác giả. Cụm từ 百花落(Bách Hoa
Lạc): nghĩa là trăm hoa rụng ( rơi xuống); các từ này trong bản dịch
thơ Ngô Tất Tố vẫn giữ được ý hay của nguyên tác. Từ 到 (Đáo): có
nghĩa là đến, là sự trở lại. Nhưng trong bản dịch thơ từ “đáo” được
dịch thành “tới”, so với nguyên tác thì chẳng có gì sai. Tuy nhiên, từ
“đáo” chỉ sự lặp đi, lặp lại như một vòng tuần hoàn, mà từ “tới” thì
chỉ có một chiều. Do đó, dùng từ “tới” sẽ không thể hiện được sự tuần
hoàn, chu kì lặp đi lặp lại của tự nhiên không bao giờ ngừng nghỉ.
Tuy nhiên qua bài dịch thơ của Ngô Tất Tố ta thấy được sự sáng tạo
mới mẻ của ông, nhất là ở từ 開(Khai:nghĩa là nở ra, mở ra. Trong
ngữ cảnh bài kệ từ “khai” phải được dịch là “nở” thì mới hợp lý với
nội dung toàn bài. Mỗi năm, xuân đều một lần về. Xuân đi (khứ), rồi
xuân đến (đáo). Sự luân hồi này con người có thể cảm nhận được qua
hình ảnh trăm hoa tàn (bách hoa lạc). trăm hoa nở (bách hoa khai).
Bởi vậy khi nhắc đến “trăm hoa tàn” “ trăm hoa nở” trưởng lão muốn
thị chúng cho môn đệ hiểu rằng, quy luật này phổ quát chẳng trừ ai.
Nghĩa là, ai cũng sẽ đến khởi điểm nhập vào vũ trụ: lạc – (rụng –
chết). Đấy là quy luật khách quan. Vì thế ngài ung dung nhập niết bàn
và cũng ung dung biết trăm hoa – chỉ môn đệ nhất định nở (khai).
Các thế hệ sau sẽ tiếp nối các thế hệ trước. Như vậy Ngô Tất Tố dịch

chữ “khai” trong bài này “cười”, là chưa hợp lý bởi vì nó chỉ thể hiện
được sự vui vẻ, lạc quan, không có tác dụng mạnh như từ “nở”. Đây
là công việc của người được học qua Hán-Nôm phải giải mã để trả
nghĩa về cho đúng nguyên tác của nó.
Hai câu thơ mang tính hàm xúc cao, ý nghĩa thâm thúy và liên kết
chặt chẽ. Không phải ngẫu nhiên vô tình mà tác giả nói xuân đi trước
xuân đến, nói hoa rụng rồi mới nói hoa tàn (trong khi xuân đến rồi

mới đi, hoa nở rồi mới rụng). Cách trình bày như thế cho thấy tác giả
lạc quan, luôn hướng tới sự sống, sự trường tồn, bất diệt.
Câu 3-4
Từ quy luật vận động, biến đổi của thời gian, của sự vật. Thiền sư thể
hiện sự ngộ giải thông qua quy luật biến đổi của đời người:
事逐眼前過
老從頭上來
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
(Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi)
Đến hai câu thơ 3-4 ta thấy ở phần dịch thơ không sát nghĩa. Bản dịch
thơ có sự đảo từ, đảo “…nhãn tiền” lên phía trước thành “Trước
mắt…”. Đồng thời ở nguyên tác thiền sư dùng từ 事 (Sự) mang âm
điệu triết học Thiền Tông để chỉ việc đời của con người cứ bộn bề nối
tiếp nhau trôi đi. Thì Ngô Tất Tố lại dịch thành từ “việc” làm người
đọc có thể hiểu nhầm thành công việc hay việc nào đó, ý thơ trở nên
mơ hồ, làm mất đi tính triết lý của nguyên tác và cũng không lột tả
được sự chảy trôi rất nhanh của dòng thời gian.
Tiếp theo ta gặp từ 老 (Lão) cũng có nghĩa là “già”, nhưng dùng từ
“Lão” lại đắt hơn. Bởi vì từ “Lão” vừa mang triết lý Thiền Tông, vừa

mang triết lý phật giáo về đời người. Trong khái niệm triết học Thiền
Tông “Lão” là một trong 24 hành pháp không tương ứng của Duy
thức tông. Các sắc tâm nối nhau biến đổi, gọi là lão. Sinh, lão, trú, vô
thường, gọi là tứ tướng. “Lão” tương đương với dị tướng của hữu
bộ. Trong giáo lý phật giáo “Lão” là một trong 4 loại khổ của nhân
gian mà người học phật thường gọi là “khổ đế” nằm trong kinh “Tứ
diệu đế”: Sinh khổ ( 生 苦 ), lão khổ ( 老 苦 ), bệnh khổ ( 病 苦 ), tử

khổ (死苦). Đó là quy luật của một đời người, từ hoài thai đến xuất
sinh, suy tàn biến thành già, khi già có nhiều bệnh, từ từ rồi chết đi.
Sinh tử phiền não cùng với tham, sân, si trói buộc con người không
được tự tại, giống như lưới võng trói buộc chúng sinh, không giải
thoát được. Như vậy chỉ với một chữ “Lão” thiền sư đã khái quát lên
được toàn bộ quy luật muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử trong đời người
ai cũng phải trải qua không thể tránh khỏi.
Đọc hai câu thơ của thiền sư làm ta nhớ đến môt bài thơ Đường của
La Ẩn, trong đó có hai câu:
只知事逐眼前去
不覺老從頭上來
Chỉ tri sự trục nhãn tiền khứ
Bất giác lão tòng đầu thượng lai
(Thủy biên ngẫu đề )
Phải chăng thiền sư đã mượn thi liệu của tiền nhân để diễn đạt giáo lí
Thiền tông. Tuy nhiên bởi vì thiền sư đã ngộ ra được sự vận hành,
biến đổi vô thường của con người và vũ trụ, cho nên ta thấy thái độ
của tiền nhân và của thiền sư hoàn toàn khác nhau. Một bên là thi
nhân hốt hoảng, bất ngờ trước cuộc đời: “Chỉ tri sự trục nhãn tiền
quá, Bất giác lão tòng đầu thượng lai”; còn một bên là Thiền sư ung
dung, tự tại trước việc tịch diệt: “Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng

đầu thượng lai”. So sánh như vậy là để làm nổi bật thái độ chấp nhận
của thiền sư trước sự vô thường của đời người, cũng từ đó mới thấy
được bản dịch thơ đã làm giảm đi ý hay của nguyên tác như thế nào.
Với âm vận của hai tiếng “mãi, rồi”: Trước mắt việc đi mãi/
Trên đầu già đến rồi, làm người đọc cảm thấy có chút gì đó tiếc núi
bùi ngùi, trong khi hai câu thơ của thiền sư lại toát lên vẻ thản nhiên
của một bậc cao tăng vui vẻ và sẵn sàng đón nhận khi đối diện với lẽ
tự nhiên đó

Câu 5-6
Nhà Sư đắc đạo vui vẻ vượt qua cảnh khổ của kiếp người để chuẩn bị
cho một sự giải thoát tuyệt đối đến thế giới cực lạc. Hai câu kết thể
hiện một tầm nhìn, chỉ ra chân lý, đem đến cái nhìn tích cực cho mọi
người:
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai)
Đọc đến đây ta thấy duy một câu thơ thứ 5, Ngô Tất Tố dịch tương
đối sát nghĩa với nguyên tác: 莫 (mạc): nghĩa là chớ, đừng (phó từ).
謂 (vị): là nói, bảo cho biết. 殘 (tàn): tàn phai, héo úa. 盡(tận): nghĩa
là hết, không còn gì nữa. Như vậy, bản dịch của Ngô Tất Tố đã không
làm mất đi cái nghĩa ban đầu, cũng như dụng ý của Mãn Giác thiền
sư khi viết câu thơ này. Đó chính là sự lạc quan, hi vọng vào một
tương lai tươi sáng, tốt đẹp, mùa xuân qua đi nhưng đâu phải rằng hoa
sẽ không còn nở. Hay thiền sư muốn nhắn rằng tuy thế hệ này qua đi,
chết đi nhưng vẫn còn những thế hệ khác tiếp nối.

Đến câu thơ thứ 6, tuy bản dịch thơ của Ngô Tất Tố dịch sát nghĩa với
nguyên tác chẳng hạn như: 庭 (đình): có nghĩa là sân. 前 (tiền): có
nghĩa là phía trước, 庭 前 (đình tiền) ở đây có thể hiểu là “sân
trước”. Nhưng việc dịch 庭 前 (đình tiền) nghĩa là “sân trước” thì
sẽ gây cho người đọc hiểu nhầm nghĩa câu thơ vì người đọc sẽ không
thể phân biệt nên hiểu là sân trước hay sân sau. Cho nên ở câu thơ này
nếu Ngô Tất Tố dịch là“trước sân” sẽ phù hợp với ngữ cảnh của bài
thơ hơn.

Cụm từ 一枝梅 (nhất chi mai) bản dịch thơ của Ngô Tất Tố dịch là
“một nhành mai” đúng và chính xác so với nguyên tác, tuy nhiên
khi xem xét nội dung bài thơ thì ta thấy “Cáo tật Thị Chúng” của
Mãn Giáp Thiền Sư nói lên quy luật của sự sống thiên nhiên, biểu lộ
tâm sự của nhà sư trước quy luật sinh tử ở cõi nhân gian, trong cái
sinh có cái tử và trong cái tử lại có sự sống mới bắt đầu. Không chỉ
thế Bài kệ “Cáo tật thị chúng” thể hiện một cốt cách, một quan niệm
sống đẹp, nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao
lộng lẫy của thiên nhiên và con người. Thế nên khi dịch 一枝梅 (nhất
chi mai ) là “một nhành mai” thì nó chưa thể hiện rõ quan niệm
cũng như triết lí của nhà sư. Nhành mai đó phải như thế nào mới phù
hợp với quy luật của toàn bài thơ và dụng ý nghệ thuật của tác giả
theo như quy luật của bài Kệ cũng như quan niệm của nhà Sư .Thì
chúng ta có thể dịch mở rộng và sáng tạo hơn đó là dịch 一 枝 梅
(nhất chi mai) thành một “nhành mai đã nở hoa”.

 Mở rộng:
Trong thơ ca, cảm xúc này cũng được nói tới hơn một lần: có người ví
thời gian như bóng câu qua cửa sổ để rồi bỗng hẫng hụt khi tháng
ngày trôi đi quá nhanh. Nguyễn Trãi thì sáng tạo ra một hình ảnh độc

đáo để chuyển tải cảm giác âu lo:
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm

Thời gian cứ như một nỗi ám ảnh bám riết với thi nhân. Đi xa hơn tới
thời hiện đại, ta cũng thấy xuất hiện cảm giác tương tự. Trong Vội
vàng – Xuân Diệu:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Hình ảnh nhành mai: Người xưa xem hoa mai là biểu tượng của
người quân tử. Nguyễn Du nói “mai cốt cách” là đề cao sự sang
trọng, thanh cao của loài hoa. Những cành mai tuy khẳng khiu nhưng
không dao động trước gió, hoa mỏng manh mà sáng bừng một sắc
vàng kiêu hãnh. Lại là loài hoa nở trước nhất các loài hoa, phải chống
chọi với cái rét mùa đông để trổ hoa, trở thành sứ giả báo tin xuân,
cho nên, hoa mai được người xưa rất coi trọng.
So sánh hình ảnh nhành mai được các tác giả sử dụng:
So sánh 1: hai câu thơ trong bài Tảo mai của nhà thơ Tề Kỉ đời
Đường:
“Tiền thôn thâm tuyết lí,
Tạc dạ nhất chi khai”.
(Thôn trước trong tuyết âm u,
Đêm qua một nhành mai nở)

CTTC ko dùng cụm chủ vị để kết thúc mà dùng cụm danh từ.

So sánh 2: hai câu thơ trong bài Mai hoa của Uông Trung:
“Cố viên hoa lạc tận
Giang thượng nhất chi khai”
(Vườn xưa hoa rụng hết
Trên sông một nhành mai nở)

Giống: sự đối lập giữa “một nhành mai nở” và cảnh “hoa rụng
hết”.

Khác: Tác giả Uông Trung nhấn mạnh sự khác biệt về thời tiết để
thể hiện nỗi nhớ quê da diết. Ông quê ở miền Bắc nhưng lại làm
quan ở Giang Tô. Khi Giang Tô đã tàn xuân thì ở phía Bắc quê
hương ông, mai mới bắt đầu nở báo tin xuân.

Dường như ý nghĩa triết lí của CTTC cao hơn một bậc.

So sánh 3: bài Thướng sơn (Lên núi) của Hồ Chủ tịch viết năm 1942:
“Cử đầu hồng nhật cận,
Đối ngạn nhất chi mai”.
(Ngẩng đầu mặt trời đỏ,
Bên suối một nhành mai)
 Hình ảnh nhành mai được đặt trong thế đối xứng với mặt trời đỏ
cao xa, huy hoàng, ngạo nghễ => Toát lên vẻ cứng cỏi khác thường.

 Khí chất người quân tử
 Phù hợp với tứ thơ đăng cao.

KẾT LUẬN
Có thể thấy việc đi so sánh, tìm độ chênh lệch giữa nguyên tác và bản
dịch thơ trong thơ văn trung đại không còn là một chuyện mới mẻ, và
đòi hỏi người làm việc này phải có một kiến thức cơ bản về chữ Hán,
chữ Nôm cúng như hiểu sâu nội dung bài thơ nguyên tác. Thế nhưng
việc so sánh một tác phẩm văn chương chữ Hán, chữ Nôm với bản
dịch chữ quốc ngữ dù khó khăn nhưng mang lại nhiều hiệu quả nhất
định. Nhất là nó phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy sau này ở
trường phổ thông của sinh viên ngành Ngữ Văn. Không nằm ngoại lệ,
III.

việc đi đo độ chênh lệch bản dịch thơ của Ngô Tất Tố với nguyên tác
chữ Hán của Mãn Giác thiền sư đã giúp ta thấy được cái hay trong
cách chọn từ ngữ của tác giả và người dịch, đồng thời giúp người đọc
chỗ nào dịch giả dịch thoát nghĩa, dịch sáng tạo, chỗ nào nên chỉnh
sửa và chỗ nào nên giữ lại. Thông qua việc so sánh này đã thấy rằng
Ngô Tất Tố có câu dịch rất sát nghĩa, giữ nguyên vẹn ý tứ của bài thơ
nguyên tác. Nhưng cũng có một số câu, số chữ, vì muốn sáng tạo mà
dịch giả đã làm mất đi phần nào ý đồ của tác giả.