Các nhà kinh tế học trường phái cổ điển cho rằng đường tổng cung (as):
Show Học thuậtĐường tổng cung (aggregate supply curve) là đường mô tả mối quan hệ giữa tổng cung và các nhân tố quyết định nó. Có 4 dạng đường tổng cung (AS) cơ bản sau đây:
Hình. Các dạng đường tổng cung (Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân) Tổng cung ngắn hạn và dài hạnTrong ngắn hạn, nguồn tổng cung đáp ứng nhu cầu cao hơn (và giá cả) bằng cách tăng việc sử dụng các yếu tố đầu vào tại thời điểm đó trong quá trình sản xuất. Trong ngắn hạn, mức vốn cố định, và một công ty không thể, ví dụ, xây dựng một nhà máy mới hoặc giới thiệu một công nghệ mới để tăng hiệu quả sản xuất cùng lúc. Thay vào đó, công ty tăng cường nguồn cung cấp ra thị trường bằng cách tận dụng nhiều hơn từ các yếu tố sản xuất hiện tại, chẳng hạn như phân công công nhân nhiều giờ hơn hoặc tăng cường sử dụng công nghệ hiện có. Về lâu dài, nguồn tổng cung không bị ảnh hưởng bởi mức giá và chỉ được thúc đẩy bởi những cải tiến về năng suất và hiệu quả sản xuất. Những cải tiến này bao gồm tăng mức độ kỹ năng và giáo dục giữa người lao động, tiến bộ công nghệ và tăng vốn. Một số quan điểm kinh tế nhất định, chẳng hạn như lý thuyết Keynes, khẳng định rằng nguồn cung tổng hợp dài hạn vẫn co giãn giá đến một điểm nhất định. Khi đạt đến điểm này, nguồn cung sẽ trở nên không nhạy cảm với những thay đổi ở mức giá. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kinh tế học cổ điển hay kinh tế chính trị cổ điển là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để giải thích các hoạt động kinh tế của xã hội loài người trong đó giả định quan trọng nhất là nền kinh tế có thể tự điều chỉnh dựa trên các quy luật tự nhiên của việc sản xuất và trao đổi hàng hóa. Đây là một trong những xu hướng tư tưởng kinh tế để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử phát triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái này vẫn còn có ảnh hưởng đến tận ngày nay. Xu hướng tư tưởng của trường phái cổ điển bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19. Những người sáng lập[sửa | sửa mã nguồn]Người đại diện đầu tiên và được xem là ông tổ của kinh tế cổ điển là William Petty (1623 – 1687), người Anh. Những công trình của ông chuyên về lĩnh vực thuế, hải quan và thống kê. Ông là một nhà kinh tế học được K. Marx đánh giá cao qua các tác phẩm kinh tế chính trị của ông. Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823), Thomas Malthus (1766-1834), John Stuart Mill (1806-1873). Theo họ kinh tế chính trị là kinh tế được nhìn bằng con mắt của chính trị gia do đó khoa kinh tế chính trị học nghiên cứu về sự giàu có của các quốc gia và cách thức các quốc gia này làm tăng của cải lên. Phương pháp luận[sửa | sửa mã nguồn]Trường phái cổ điển đối lập với chủ nghĩa trọng thương trên nhiều phương diện, trong đó sự khác biệt biểu hiện ở phương pháp luận và đối tượng nội dung các luận thuyết. Thực tiễn giai đoạn phát triển kinh tế công xưởng lên công nghiệp hóa thể hiện sự trỗi dậy của lực lượng doanh nghiệp hoạt động trong sản xuất công nghiệp, đẩy hoạt động buôn bán và cho vay vào hàng thứ yếu. Với lý do đó đối tượng nội dung của nghiên cứu kinh tế học chuyển từ lĩnh vực giao thương sang lĩnh vực sản xuất. Phương pháp nghiên cứu dựa trên việc đề xuất các định đề thu nhận từ các quy luật sản xuất có thể quan sát. Có thể nói, trường phái cổ điển biến kinh tế chính trị thành một môn khoa học nghiên cứu những vấn đề kinh tế cơ bản nhất của một quốc gia trong đó trường phái này đề cao sự cạnh tranh tự do và cho đó là nền tảng để một nền kinh tế vận hành tốt đem lại sự giàu có cho một quốc gia. Chính từ trường phái này đã sản sinh ra môn khoa học kinh tế. Tăng trưởng kinh tế và phồn thịnh xã hội được cho là phụ thuộc vào sự năng động và trạng thái cân bằng cung cầu của nền kinh tế quốc gia. Trường phái cổ điển cho rằng cân bằng cung cầu trong kinh tế có thể đạt được một cách tự động theo quy luật thị trường của Jean-Baptiste Say. Trường phái cổ điển coi tiền tệ là một dạng hàng hóa đặc biệt trong thị trường hàng hóa, và chúng không thể bị thay thế bởi những thỏa thuận giữa mọi người. Tuy nhiên, chức năng của tiền chỉ được đánh giá là phương tiện trao đổi mang tính kỹ thuật. Ngoài ra, việc đơn giản hóa phân tích và hệ thống hóa đã làm cho kinh tế học hướng đến việc tạo ra các mệnh đề thuần túy kinh tế không tính đến các yếu tố tâm lý, đạo đức, luật pháp và các yếu tố xã hội khác. Những đặc điểm riêng biệt[sửa | sửa mã nguồn]
Các giai đoạn phát triển[sửa | sửa mã nguồn]Vấn đề xác định giai đoạn phát triển trường phái cổ điển được xem xét từ lâu. Thời điểm mở đầu của trường phái này được chấp nhận theo quan điểm của K. Marx và dường như không gây tranh cãi trong giới nghiên cứu lịch sử kinh tế. Tuy nhiên thời điểm kết thúc của nó thì Marx chỉ hạn chế bằng những tác phẩm của A. Smith và D. Ricardo. Các luận thuyết của các nhà nghiên cứu tiếp theo không được Marx công nhận là thuộc về trường phái này, và Marx gọi đó là Kinh tế chính trị tầm thường, mà những người đứng đầu của khuynh hướng này là Th. Malthus và J. B. Say. Quan điểm trên của Marx không được hưởng ứng bởi các nhà nghiên cứu khác, ví dụ như J. K. Gelbreyt – giáo sư trường đại học tổng hợp Harvard. Ông cho rằng ý tưởng của Smith và Ricardo vẫn còn tiếp tục phát triển đến tận giữa thế kỷ 19 với những tác phẩm nổi tiếng của J. S. Mill [1]. Ý kiến này được các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế Ben Celigmen, P. Samuelson và M. Blaug công nhận. Dựa vào những đặc điểm chung, đúc kết từ các luận thuyết của các nhà nghiên cứu tiêu biểu, có thể xem cách phân chia giai đoạn phát triển của trường phái này như sau:[2]
Các nguyên lý cơ bản[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
|